Câu đối của các nữ sĩ
Đoàn Thị Điểm
[sửa]Đoàn Thị Điểm có biệt hiệu là Ban Tang, quê quán ở làng Hiến Phạm (còn gọi là Giai Phạm, tên nôm là làng Giữa), huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Châu Giang tỉnh Hải Hưng. Nguyên vào một buổi tối rằm Trung Thu, Ông Hương Cống họ Đoàn đi xem bày cỗ triển lãm ở kinh thành, thấy nơi đây có một cô gái xinh đẹp, liền cậy người mối lái đến hỏi cưới. Năm 1703, người vợ họ Vũ nầy sanh được một con trai đầu lòng, đặt tên là Đoàn Doãn Luân; qua 2 năm sau, năm 1705, sanh thêm một đứa con gái đặt tên là Đoàn Thị Điểm. Cô Điểm, mặc dầu là gái nhưng ngay từ thuở nhỏ được học chữ nghĩa giống hệt như anh Luân, học đủ Ngũ Kinh và Tứ Thư. Năm cô 35 tuổi, cha và anh đã mất, cô Điểm cùng mẹ, chị dâu và 2 cháu bỏ làng Vô Ngại, tản cư đến làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Trong thời gian Cô Điểm dạy học, Nguyễn Kiều đến xin cầu hôn và cô đã mủi lòng...Nguyễn Kiều, hiệu là Hạo Hiên, tại làng Phú Xã huyện Hoài Đức. Năm 1717, Nguyễn Kiều được bổ làm quan Đốc Đồng ở Nghệ An, và năm 1736 được thăng chức Thị Lang. Cô Điểm về nhà chồng, sống với chồng rất tâm đầu ý hợp, khi rảnh thường hay xướng họa thơ văn. Nhưng ở với nhau chỉ được 7 năm thì cô Điểm mắc bạo bệnh qua đời, dưới đây là những giai thoại đối đáp của Đoàn Thị Điểm và những nhân vật đương thời:
Với anh trai Đoàn Doãn Luân (1703 - 1735)
[sửa]- Đoàn Doãn Luân là con trưởng của vợ kế ông Đoàn Doãn Nghi, Đoàn Doãn Luân được thân phụ dạy cho chữ Hán ngay từ lúc 3 tuổi, đến tuổi trưởng thành thì thi đậu Hương cống. Đoàn Doãn Nghi hỏi cưới con gái của bạn học cho con trai của mình. Sau lễ Hỏi ít lâu, cô dâu bị bệnh đậu mùa, cứu sống được nhưng mặt bị rỗ hoa và chân tay lóng cóng. Bên nhà gái thấy vậy cho người sang xin hủy bỏ cuộc hôn nhân nầy vì e rằng không đảm bảo hạnh phúc vợ chồng. Nhưng Đoàn Doãn Luân nhứt quyết giữ hạnh người quân tử, một dạ thủy chung. Năm 1726, vợ Doãn Luân sanh con gái đầu lòng, đặt tên là Đoàn Lệnh Khương, 3 năm sau sanh thêm một trai đặt tên là Đoàn Doãn Y. Ngay từ khi lọt lòng, 2 cháu Khương và Y đều được Cô ruột là Điểm chăm sóc tận tình. Sau khi cha mất, Đoàn Doãn Luân đưa vợ con về ở luôn quê nhà là làng Hiến Phạm, sau đó lại chuyển qua ở làng Vô Ngại. Tại đây, Đoàn Doãn Luân mở trường dạy học, bởi chị dâu vì bịnh đậu mùa tay như có tật, nên Cô Điểm đứng ra thay thế lo việc tề gia nội trợ. Mỗi khi anh Luân đau ốm, Cô thường thay thế anh giảng sách cho học trò. Gia đình họ Đoàn đang sống an vui thì Đoàn Doãn Luân đột ngột từ trần, để lại 2 đứa con thơ với một người vợ gần như tật nguyền, và một mẹ già tóc bạc. Tương truyền cô Điểm, khi lên 6 tuổi, đang học Sử Ký Tư Mã Thiên, anh là Đoàn Doãn Luân lấy một câu trong Sử Ký ra câu đối:
- 白蛇當道貴拔劍而斬之 Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi (Rắn trắng giữa đường, ông Quý tuốt gươm mà chém) ông Quý ở đây là tên huý của Hán Cao Tổ Lưu Bang
- Cô Điểm liền lấy một câu cũng trong Sử Ký đối lại: 黄龍傅舟禹仰天而歎曰 Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết (Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ ngửa mặt lên Trời mà than) ông Vũ ở đây là vua Đại Vũ nhà Hạ
- Một hôm, anh trai Đoàn Thị Điểm là Đoàn Doãn Luân xuống ao rửa chân, thấy em đang trang điểm trước gương, bèn ra câu đối: 對鏡畫眉一點番成兩點 Đối kính hoạ mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm (Soi gương kẽ lông mày, một nét hoá ra hai nét). Trong đây có chữ Điểm là tên của bà
- Đoàn Thị Điểm đối lại: 臨池玩月隻輪轉作雙輪 Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân (Tới ao ngắm trăng, một vầng hoá ra hai vầng). Trong đó có chữ Luân là tên của anh bà.
- Có lần Đoàn Doãn Luân từ ngoài đi vào nhà, thấy em gái đang ngồi bên rổ kim chỉ, liền đọc:
- Huynh lai đường thượng tầm song nguyệt (Anh trai đến nhà trên tìm 2 mặt trăng)
- Song nguyệt là 2 mặt trăng, mà theo chữ Hán, 2 chữ Nguyệt ghép lại là chữ Bằng: Bè bạn, bằng hữu, nên câu trên còn có nghĩa là: Anh trai đến nhà trên tìm bạn.
- Cô Điểm liền đối lại: Muội đáo song tiền tróc bán phong (Em gái đến trước cửa sổ bắt nửa làn gió)
- Bán phong là nửa làn gió, mà cũng có nghĩa là phân nửa chữ Phong tức là chữ Sắt nghĩa là con rận. Nên câu đối trên có nghĩa là : Em gái đến trước cửa sổ bắt con rận.
- Khi hay tin chị dâu sanh được con gái đầu lòng là Đoàn Lệnh Khương, trong đêm rộn rịp vui mừng, Cô Điểm đùa với anh Luân, đọc rằng: Bán dạ sinh hài, Hợi Tý nhị thời vị định (Nửa đêm sanh con, Hợi Tý 2 giờ chưa định)
- Đoàn Doãn Luân liền đối lại: Lưỡng tình tương phối, Kỷ Dậu song hợp nãi thành (Hai tình phối hợp, Kỷ Dậu 2 hợp mà thành)
- Hai vế đối đều có lối chơi chữ rất độc đáo, 2 chữ Hợi và Tý ghép lại thành chữ Hài; chữ Kỷ và chữ Dậu ghép lại thành chữ Phối.
Với quan Tham Tụng và quan Thượng Thư
[sửa]- Có một lần quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn sang chơi bên dinh của Thượng Thư Lê Anh Tuấn, thấy Cô Điểm đang đi một mình bên bờ dậu, ông dừng lại, bảo Cô Điểm làm câu đối lấy đề tài là đi một mình. Chỉ giây lát, Cô Điểm đọc:
- Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu (Bàn chuyện xưa nay, tim bụng là bạn)
- Truy tùy tả hữu cổ quăng thần (Đi theo trái phải, tay chân là bờ tôi)
- Thượng thư Lê Anh Tuấn nhân không có con muốn đưa bà về làm con nuôi, để dâng cho chúa Trịnh Giang. Ông bèn ra đầu đề khác: "Một ngày không thấy như là ba thu" và bảo ccô Điểm vịnh thơ quốc âm. Cô Ðiểm liền ngâm rằng:
- Những màng mây khắc giang cầm hạc
- Ngỡ đã và phen đổi lá ngô
- Lê Anh Tuấn khen ngợi không ngớt rồi ngỏ ý muốn tiến bà vào cung chúa Trịnh. Nhưng bà không bằng lòng, bèn lại cùng anh là Doãn Luân dời nhà ở tới chỗ người cha đang dạy học ở làng Lạc Viên, huyện Yên Dương, tỉnh Kiến An để tránh trước những sự không hay có thể xảy ra vì việc từ hôn ấy.
Những câu đối của Đô Ngự Sử Nguyễn Kiều (1695 - 1752) với Đoàn Thị Điểm
[sửa]- Nguyễn Kiều hiệu là Hạo Hiên, sinh tại làng Phú Xá, huyện Từ Liêm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Thuở trẻ, ông nổi tiếng hay chữ, có tài văn chương. Khoa Ất Mùi (1715) đời vua Lê Dụ Tông, ông đỗ Tiến sĩ, được bổ làm quan, dần lên đến chức Đô ngự sử, tước bá. Sau khi góa vợ, khoảng năm 1742, ông lấy nữ sĩ Đoàn Thị Điểm làm vợ kế. Cũng trong năm ấy, ông được cử làm Chánh sứ cùng Nguyễn Tông Quai làm Phó sứ, dẫn đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc). Bấy giờ đoàn sứ bộ nước ta sang Trung Quốc về tới Quảng Tây bị nghẽn đường bởi dân chúng vùng này nổi dậy khởi nghĩa vũ trang chống lại nhà Thanh nên buộc phải nán lại để lánh nạn mà không kịp về An Nam ăn tết, Nguyễn Kiều liền ứng tác ra đôi câu đối trong bối cảnh xa xứ nhớ vợ:
- Tứ thơ niềm khách bên đèn mộng
- Tiếng pháo hò xe rộn ngõ ngoài
- Năm Mậu Dần, tháng hạ bà Điểm đang ngồi với ông chồng ở tư thất bình văn, tập hợp các bài văn cũ để làm thi tập cho cả nhà. Đột nhiên bức màn đỏ che trước cửa, kế bên ông bà ngồi, bị gió cuốn lên làm bụi bay tứ tung. Bà Điểm bấm đốt ngón tay rồi đọc câu thơ rằng:
- Bắc khuyết vân trình chiêu thiếp thụy (Cửa Bắc xe mây điềm thiếp rõ)
- Nam thùy xuân vũ trước quân ân (Bờ Nam mưa ấm tỏ ơn vua)
- Nghe qua, Nguyễn Kiều bồn chồn hỏi ý nghĩa câu thơ nhưng bà chỉ mỉm cười không nói. Nhưng bà biết điềm xấu sắp xảy ra với mình, còn chồng sẽ được thăng quan”. Quả đúng như vậy, ít lâu sau do có công trong chuyến đi sứ, Nguyễn Kiều được bổ làm Đốc đồng trấn Nghệ An. Lúc đó, Đoàn Thị Điểm không muốn theo chồng đi, vì ở nhà còn mẹ già và các cháu thiếu người chăm sóc, cũng như linh tính báo sẽ có điều không lành trong chuyến đi xảy đến với bà. Nhưng Nguyễn Kiều hết lời nài nỉ, cuối cùng bà phải chiều chồng, làm bổn phận người vợ, xuống thuyền cùng ông đi vào Nghệ An. Lúc thuyền đến bến Đền Sòng, nơi thờ công chúa Liễu Hạnh, bà bị cảm rất nặng. Biết mình không thể qua khỏi, bà trăng trối với chồng: "Chàng nên cố gắng lo tròn việc nước để trở về kinh sớm ngày nào tốt ngày đó, chớ nên ở lâu chốn biên thùy này mà dấn thân vào nơi gió bụi hiểm nguy". Trối xong, bà từ trần, lúc đó là ngày 11 tháng 9 năm Đinh Mão (1748), hưởng được 44 tuổi.
- Theo gia phả họ Đoàn, tổ tiên Đoàn Thị Điểm trước họ Lê và theo con đường võ nghiệp. Nguyên tằng tổ là Lê Công Nẫm, làm quan võ tới chức Thái Thường tự Thiếu Khanh, được phong tước Thiêm hào tử. Đến đời cụ thân sinh Lê Doãn Nghi vì nằm mộng thấy một vị thần bảo ông đổi sang họ Đoàn thì mới hiển đạt. Về sau con cái hiển đạt, ông đã xây miếu thờ vị thần báo mộng cho mình tại bản thôn. Hiện nay, miếu thờ đó vẫn được con cháu họ Đoàn ở thôn Giai Phạm hương khói. Về việc này trong nhà thờ họ còn lưu đôi câu đối như sau:
- Vũ liệt văn khôi quang thế phả (Võ giỏi văn tài ngời phả họ)
- Lê tiền Đoàn hậu ký Thần ngôn (Lê xưa Đoàn mới nhớ lời Thần)
Với Trạng Quỳnh
[sửa]Trạng Quỳnh sau nhiều keo thất bại trước Đoàn Thị Điểm trở lên liều lĩnh, một hôm ông đột nhập vào phòng riêng của bà nằm sẵn trong giường. Khi Đoàn Thị Điểm tắt đèn đi ngủ vào trong màn quờ quạng vô tình chạm tay phải của ấy của Quỳnh, bà lập tức ra thắp đèn lên rồi ra vế đối bảo rằng lần này mà không đối được sẽ mách cha đuổi Quỳnh đi:
- vế ra: Trướng nội vô phong phàm tự lập (Trong trướng không có gió mà sao cột buồm dựng lên)
- may thay hôm đó Trạng Quỳnh lại nghĩ ra ngay đối lại: Hung trung bất vũ thuỷ trường lưu (Trong bụng không có mưa mà nước vẫn chảy)
- Một ngày xuân đi hội cùng nhau, Đoàn Thị Điểm nhìn thấy cây xương rồng, ra vế đối muốn thách Trạng Quỳnh: Cây xương rồng trồng đất rắn, long vẫn hoàn long
- Long, chữ Hán là rồng, mà tiếng nôm nghĩa là không chặt.
Trạng Quỳnh liền đối lại là: Quả dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử
- Thử là con chuột, nhưng tiếng nôm nghĩa là làm thử, chưa phải làm thiệt. Chữ nghĩa rất chỉnh mà nội dung lại thể hiện được khả năng “đĩ mồm” của Quỳnh, cũng từ đó Trạng Quỳnh và Đoàn Thị Điểm cũng cắt tình đoạn nghĩa không quan hệ với nhau nữa. Theo các học giả ngày nay thì vế đối này là của Nguyễn Đức Tâm đối đáp với một ông khác lạ là bạn của thầy đồ Mỹ Lý.
Đoàn Thị Điểm và Trạng Quỳnh với nhà Thanh
[sửa]- Lôi động Nam bang (nghĩa là: Sấm động cả nước Nam) - sứ nhà Thanh
- Vũ qua Bắc hải (nghĩa là: Mưa qua cả biển Bắc) - Trạng Quỳnh
- Bấy giờ vua Càn Long nhà Thanh phái Hàng Địch Lộc và Nhiệm Lan Chi sang An Nam, Trạng Quỳnh được cử đóng giả làm anh lái đò đi đón sứ thần, ngồi trên thuyền bất ngờ sứ thần đánh rắm, vì chữa thẹn nên mới đọc câu đối như thế nhưng không ngờ Trạng Quỳnh vạch quần tè ngay xuống sông để đối lại.
- 安南一寸土不知幾人耕 An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh (An Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày) - Sứ nhà Thanh
- 北國大丈夫皆由此途出 Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất (Các đại phu nước phương Bắc, đều do từ chỗ ấy mà ra) - Đoàn thị Điểm
- Sau khi lên bờ, Đoàn Thị Điểm đã được bố trí sẵn đóng giả sẵn làm bà bán nước ngồi ở ven đường. Khi sứ nhà Thanh đi ngang qua bà cố tình vén váy hở ra để sứ thần nhìn thấy, sứ liền đọc như vậy có ý chê phụ nữ nước Nam lẳng lơ đĩ thõa, không ngờ bị bà Điểm đối lại thành ra lại bẽ mặt.
Đoàn Lệnh Khương (1726 – 1800)
[sửa]Câu đối cứu giúp người nghèo
[sửa]Đoàn Lệnh Khương là con Đoàn Doãn Luận, cháu gái Đoàn Thị Điểm, quê ở Yên Tiên, huyện Yên Mỹ (Hưng Yên). Nghe tiếng bà Lệnh Khương rất hay chữ, một ông lão nhà nghèo ở trong làng nọ, không nơi nương tựa, đã xin gặp bà và trình bày với bà về hoàn cảnh và điều mong ước của mình: "Tình cảnh của tôi rất nghèo. Tôi muốn xin bà một đôi câu đối để đi kiếm ăn. Bất kỳ đám nào, việc hiếu, việc hỷ, tôi đều có thể dùng câu đối ấy để đến mừng hay đến viếng. Bà hãy làm ơn giúp tôi". Lời yêu cầu thật hóc búa, chưa từng có câu đối nào vừa mừng đám cưới lại có thể viếng cả đám ma. Thương tình cảnh ông lão nghèo khổ đã tin tưởng và ngỏ lời nhờ vả, bà Lệnh Khương vận dụng kiến thức văn học, kiến thức cuộc đời mà bà đã có được để giúp ông lão. Và điều ông lão nhờ bà đã được làm xong, câu đối ấy như sau:
- Nhất đức tại thiên tuỳ sở phú
- Thất tình ư ngã khởi vô tâm
- Bà giải nghĩa cho ông lão: “Người ta ở đời gặp may hay rủi, vui hay buồn đều ở cái đức. Phàm lấy vợ, lấy chồng, buôn bán làm ăn… may rủi, lành dữ đều cũng do cái đức cả”. Đó là ý của vế đầu. Còn vế sau thì thế này:” Con người ta có bảy tình: mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn (hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục). Cho nên gặp việc vui thì ta vui; gặp việc buồn thì ta buồn, hỏi ai lại vô tâm cho được”.
Câu đối khóc chồng
[sửa]Đoàn Doãn Luân qua đời sớm khi mới 30 tuổi, để lại hai đứa con nhỏ được Đoàn Thị Điểm bảo bọc nuôi dạy khôn lớn. Đoàn Lệnh Khương thông minh hiếu học lại được cô chỉ dạy chu đáo nên sớm bộc lộ tài năng văn chương ứng đối. Năm 31 tuổi, Đoàn Lệnh Khương chấp nhận mối tình với nho quan Nguyễn Xuân Huy. Về làm vợ kế cho viên Đốc đồng trấn Sơn Nam chưa tròn bảy năm thì chồng qua đời, trước đó vài ngày người con riêng của Nguyễn Xuân Huy cũng bệnh mất. Đoàn Lệnh Khương viết đôi câu đối khóc phu quân:
- Tuyền hạ thừa hoan, ưng tri quân hữu tử (Dưới suối vàng vui vầy, biết chàng có con)
- Mộng trung đối thoại, thùy vị thiếp vô phu (Trong giấc mộng chuyện trò, ai bảo thiếp không chồng)
- Sau đó, Đoàn Lệnh Khương về Thăng Long mở trường dạy học. Nghe tiếng Đoàn Lệnh Khương, học trò từ các nơi về học rất đông. Đương thời, bà được nhân dân kinh thành Thăng Long yêu mến, trân trọng gọi là Nữ học sư
Hồ Xuân Hương
[sửa]Hồ Xuân Hương là con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Lúc Hồ Xuân Hương đã lớn, gia đình về thôn Tiên Thị, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư - Hà Nội). Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng dựng gần hồ Tây, lấy tên là Cổ Nguyệt đường, chiết tự họ Hồ của mình ra thành 2 chữ Cổ và Nguyệt. Hồ Xuân Hương ở với mẹ, có đi học, sáng dạ, thông minh, nhưng không được học nhiều, thích làm thơ. Khi Xuân Hương lánh nạn lên Vĩnh Yên gặp Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa (1802-1804), bắt đầu cuộc đời mười năm lận đận, vợ cả ghen tuông, thân phận như nàng Tiểu Thanh. Dứt tình với Tổng Cóc, quan Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển cầu hôn, đám hỏi chẳng bao lâu thì mẹ mất, phải cư tang mẹ, đến đầu năm 1816 Hồ Xuân Hương mới về Yên Quảng được hai năm thì chồng bị bắt và kết án tử hình. Xuân Hương đi tu rồi trở về làng Nghi Tàm chết trong cô đơn, không một bài thơ phúng điếu.
Tự thuật và ứng khẩu
[sửa]- Câu đối vịnh cái Âm Hộ:
- Khi khép tối om om, quân tử tò mò nhìn chăng thấy
- Lúc mở ra toang hoác, anh hùng tấp tỉnh đứng coi
- Ứng khẩu khi bị trượt ngã:
Hôm ấy, Hồ Xuân Hương cùng bạn bè ra phố dạo chơi, không may bà dẫm phải chỗ trơn trượt té sõng soài xuống đất. Người đi đường và bạn bè thấy vậy cười lăn cười bò, bà liền giơ tay trỏ lên trời đọc luôn đôi câu đối:
- Giơ tay với thử, Trời cao thấp
- Xoạc cẳng đo xem, Đất vắn dài
- Hồ Xuân Hương khi du ngoạn qua cửa Gió ở Đèo Ngang, đã viết:
- Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá
- Gớm con tạo lừa cơ tem hẻm, rút nút nuôi cho lọt khách cổ kim
- Câu đối Tết:
- Đêm ba mươi tống cựu, khép cánh càn khôn, một then đưa đẩy khìn khin khít khịt
- Sáng mồng một nghinh tân, mở lò tạo hóa, hai cánh banh ra toác toạc toàng toang
- Câu đối nhận xét về tình duyên của mình:
- Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
- Một đời riêng mấy tiếng chua cay
- Hồ Xuân Hương và quan lớn:
Hôm ấy, một viên quan lớn trong triều đi vãn cảnh hồ Tây. Trời trong, nước xanh, cảnh vật đẹp đến nao lòng vì bao nhiêu tinh tú của đất trời dường như tụ hội cả ở nơi đây. Nơi mà tâm hồn nhạy cảm của bà nhìn ra và quyết định dừng lại an cư lập nghiệp chứ không tiến vào kinh thành Thăng Long - nơi bao văn võ bá quan, dân kinh kỳ kẻ chợ có máu mặt đều tìm vào - vì vị trí khuất nẻo so với kinh thành...Tiếng quân lính hô hét dẹp đường, cảnh võng lộng nghêng ngang, tiền hô hậu ủng, phá tan cảnh đẹp của bầu trời nơi đây. Xuân Hương đang giặt ở ven hồ thấy chướng tai gai mắt, liền buông rải quần áo ven bờ, điềm nhiên nhìn thẳng vào kiệu của quan đang đi tới, ngẫm nghĩ trong đầu, tìm tứ thơ, rồi đọc to:
- Võng đào quan lớn đi trên ấy
- Váy rách bà con giặt dưới này
- Ví cái võng điều của quan lớn với váy rách của bà con quả là chua cay. Xem ra, quan thời xưa chả khác quan thời nay là mấy. Trong khi bà con khổ sở, cùng cực thì quan vơ vét hết cho bản thân. Nhà cao cửa rộng, vợ nọ con kia, còn ô dù võng lọng, nghêng ngang, quát lác, chỉ ăn tàn phá hại, có lợi gì cho dân đâu? Nghe câu đối, cả thầy, cả tớ trợn mắt nhìn Xuân Hương, thấy phong thái ung dung, ngôn từ sóc lỏi, độc địa, biết không thể là đối thủ để nạt nộ, đành lẳng lặng đi qua như không hề nghe thấy...Chuyện này mà để lan truyền ra khắp kinh thành Thăng Long thì mặt quan thành mặt mo, còn nhục hơn bị bà con dùng váy rách che lên mặt. Từ đó, như quả pháo xịt ngòi, quan mất hẳn thói nghêng ngang, hống hách, đi đâu bỏ hết lính dẹp đường ở nhà, Hồ Tây trở lại với khung trời cao rộng, cây xanh, nước biếc, đẹp mê hồn.
Đối đáp với Chiêu Hổ
[sửa]Phạm Đình Hổ tên chữ là Tùng Niên hoặc Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ. Chiêu Hổ người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay từ nhỏ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí rằng: "Làm người con trai phải lập thân hành đạo...Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời..." Tuy đọc nhiều sách, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ. Khi Gia Long lên ngôi, ông đang dạy học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Tại đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, dưới đây là những giai thoại đối đáp giữa hai người:
- Những câu đối chào hỏi khi gặp gỡ:
- Hồ Xuân Hương ra: Khấp như thiếu nữ vu quy nhật (Khóc như thiếu nữ vui ngày cưới)
- Chiêu Hổ đối: Tiếu tự thư sinh lạc đệ thi (Cười như anh khóa lúc hỏng thi)
- Chiêu Hổ hứng khởi lại ra: Người Cổ lại còn theo thói Nguyệt (Chữ cổ ghép với chữ nguyệt là chữ hồ, ý nói Hồ Xuân Hương đã lớn tuổi mà vẫn đa tình)
- Hồ Xuân Hương đối: Buồng Xuân đâu đã nhạt mùi Hương (Chữ Xuân với ghép chữ Hương là tên, ý nói Hồ Xuân Hương này đâu đã phải là người “nhạt phấn phai hương”, đâu đã chịu già hom!)
- Có thuyết nói cả 2 vế đều của Chiêu Hổ viết tặng Hồ Xuân Hương, vế sau thay chữ "đâu đã" bằng chữ "chi để". Câu đối ghép lại đủ cả tên họ bà, còn tách ra lại là sự trách khéo: "Đã tự coi là người cổ hủ, trọng nề nếp, gia phong lại còn thích thói hưởng nguyệt, xem hoa, lả lơi, thi phú ? Đang tuổi xuân thì còn hương sắc, mà không gìn giữ nền nếp, gia phong thì buồng xuân còn để lạnh đến bao giờ?
- Lúc mới quen nhau, Chiêu Hổ còn ngại ngùng, Xuân Hương đùa:
- Những bấy lâu nay luống nhắn nhe, nhắn nhe toan những sự gùm ghè, gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám, chưa dám cho nên phải rụt rè.
- Chiêu Hổ cả thẹn nổi máu nóng anh hùng phản công liều lĩnh: Hỡi hỡi cô bay tớ bảo nhe, bảo nhe không được gậy ông ghè! ông ghè không được ông ghè mãi, ghè mãi rồi lâu cũng phải rè!
- Ta thấy Chiêu Hổ mất bình tỉnh, lời thơ hồ đồ, nóng nảy. Tuy nhiên chúng ta thấy hai người đừa bởn rất thân tình.
- Một hôm, Chiêu Hổ đến chơi nhà Hồ Xuân Hương, khi đi qua sân, đụng phải quần áo của nàng đang phơi. Hồ Xuân Hương xuất thần đọc: Tán vàng, lọng tía, che đầu nhau mỗi khi nắng cực
- Chiêu Hổ đối lại: Thuyền rồng, mui vẽ, vém buồm lên rồi sẽ lộn lèo
- Bữa nọ, Chiêu Hổ hơi men chếnh choáng ghé sang nhà Hồ Xuân Hương chơi, mượn cớ say rượu ông vừa nói chuyện vừa đưa tay quờ quạng lung tung, Hồ Xuân Hương biết Chiêu Hổ giả đò liền tức cảnh thành thơ:
- Vẫn giả tỉnh vẫn giả say, sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày? này này chị bảo cho mà biết, chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
- Chiêu Hổ đáp: 'Nào ai tỉnh nào ai say, nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày? hang hùm ví bẳng không ai mó, ao có hùm con bỗng trốc tay?
- Văn bản cổ nhất chép giai thoại này không gọi là thơ Chiêu Hổ mà ghi là thơ "Mắng người say rượu", các văn bản về sau dựa vào chữ hùm, hùm con nên cho rằng đó là của Chiêu Hổ đối đáp với Hồ Xuân Hương.
- Năm 1804 sau khi thôi Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương vay tiền Chiêu Hổ để mở hiệu sách ở Phố Nam gần đền Lý Quốc Sư, Xuân Hương vay năm quan tiền. Chiêu Hổ cho mượn có ba, Xuân Hương trách:
- Sao nói rằng năm lại có ba? trách người quân tử hẹn sai ra, bao giờ thong thả lên chơi nguyệt, nhờ hái cho xin nắm lá đa.
- Chiêu Hổ đáp: Rằng gián thì năm quí có ba, bởi người thục nữ tính không ra, ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt, cho cả cành đa lẫn củ đa.
- Xuân Hương trách Chiêu Hổ là Cuội, nói dối như Cuội ngồi gốc cây đa trên mặt trăng, có lẽ Chiêu Hổ cũng không giàu có lắm, nên mượn chuyện tiền quí với tiền gián mà trả lời. Ngày xưa một quan có mười tiền, tiền gián có 36 đồng, một quan bằng 360 đồng, do đó 5 quan bằng 1800 đồng. Tiền quí có 60 đồng; do đó 3 quan tiền quí bằng 60 X 3 = 1800 đồng. Xuân Hương tưởng mượn Chiêu Hổ tiền quí, nhưng Chiêu Hổ cho mượn tiền gián, trách Xuân Hương sao tính không ra.
- Năm 1821, Phạm Đình Hổ dâng sách được vua Minh Mạng vời ra: Ông được bổ làm Hành Tẩu Viện Hàn Lâm. Xuân Hương năm ấy chồng Tham Hiệp Trần Phúc Hiển bị tử hình, trở về Cổ Nguyệt Đường, hay tin đã làm câu đối mừng Chiêu Hổ với lời đùa nhẹ nhàng:
- Mặc áo Giáp, dãi cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình rằng Quý
- Hồ Xuân Hương lấy những chữ trong thập can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý ý muốn chế diễu Chiêu Hổ chỉ đỗ Tú Tài, nhờ dâng sách mà được làm quan nay mặc áo đẹp ra vẻ ta đây.
- Chiêu Hổ nổi nóng, đối đáp bằng lời mắng nặng nề: Làm đĩ Càn, tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly Đoài khéo nói rằng Khôn
- vế đối lấy những chữ trong bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn , Ly, Khôn, Đoài mắng Xuân Hương là 'con đi càn dỡ lại còn tự phụ, cho mình khôn'. Những lời mắng nặng nề ấy đã chấm dứt mối liên hệ giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ. Trong thư hồi âm, đoạn cuối ông viết hai câu kết để cắt tình đoạn nghĩa với "bà chúa thơ nôm":
- Nay đã mần cha thằng xích tử
- Rầy thì đù mẹ cái hồng nhan
- Xích tử là con đỏ, trỏ dân chúng. Theo Lê Thước, thì hai câu này là của Nguyễn Công Trứ - thân hai câu này là vô nghĩa lý: tại sao đã được mần cha thằng xích tử, thì lại đù mẹ cái hồng nhan! Không thèm đù nữa, hay lại đù hơn bao giờ hết? Chẳng qua đây là đối chọi chữ chan chát cho thích. Những chuyện tục truyền như thế này, rất có thể không phải là sự có thật (có ý kiến cho Chiêu Hổ chỉ là nhân vật trong giai thoại, không phải là Phạm Đình Hổ), nếu mà có thì như vậy thật đáng buồn biết chừng nào, Chiêu Hổ thì có vợ con, yên nhà yên cửa, tốt thân tốt thế, quan lớn sống lâu! Còn Xuân Hương thì lận đận, long đong, chưa bề nào! Hạ những lời đùa như thế giữa hai người tài tử ai đáng hơn ai?
Đối đáp với học trò
[sửa]Một hôm sau ngày mưa, Hồ Xuân Hương đến trường, giẫm phải hòn gạch dưới có bùn bắn lên tận cẳng chân (hồi đó con gái còn mặc váy) Hồ Xuân Hương phải ra cầu ao cúi xuống vén váy rửa cẳng chân. Một cậu học trò tinh nghịch trông thấy liền đọc một vế:
- Nê nếnh do chi tầm hà xứ? (Đại ý: Bùn bắn lên cẳng chân để tìm cái gì trên ấy nhỉ?)
- Hồ Xuân Hương liền đáp: Mạc tương thoá thủ tiếu anh hùng (Đại ý: Khi cúi xuống rửa tay thấy nó cười người anh hùng như cậu).
Đối đáp với nhà sư
[sửa]Tương truyền khi Xuân Hương qua chùa chơi, vốn biết Xuân Hương nổi tiếng thơ phú, nhà sư liền cho chú tiểu mang ra 1 vế thách đối.
- Vế ra như sau: Thông ba sáu bộ chân kinh, dẫu chẳng La Hán Kim Cương, cũng cao tăng đạt đạo
- Hồ Xuân Hương liền bảo chú tiểu đưa bút và viết ngay vế đối lại bên cạnh: Dù hay ba vạn chín nghìn, không biết méo tròn ngang dọc, thì cũng đếch ra người
Đối đáp với Tổng Cóc (có thuyết khác nói cả 2 vế đều của Hồ Xuân Hương)
[sửa]Trong thời gian theo cha về Sơn Dương dạy học, Hồ Xuân Hương được nhiều cậu Tú, anh Nho ngấp nghé chuyện riêng tư, trong những người đó có Tổng Cóc. Ông Tổng Cóc có tên thường gọi là Kình, quê ở làng Gáp, xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ). Khi đi lính lên chức Đội, gọi là Đội Kình. Khi làm Phó tổng được gọi là Tổng Kình. Tên chữ của Tổng Kình là Nguyễn Công Hòa. Cóc là tên gọi lúc còn bé. Gọi tên xấu xí thế cho tà ma bớt quấy. Sau này Hồ Xuân Hương có bài thơ Khóc Tổng Cóc nên dân làng mới gọi ông là Tổng Cóc. Tổng Cóc là con cháu quan nghè làng Gáp Nguyễn Quang Thành. Tương truyền Tổng Cóc kết thân với Tú Điếc làng Xuân Lũng và Nho Trâm người làng Kinh Kệ. Ba người quen biết Hồ Xuân Hương trong dịp họ đi thi Hương. Nhờ sự mối manh của họ, mà cụ Đồ Xứ người Nghệ An (đỗ đầu xứ nên khi dạy học họi là Đồ Xứ) đã dẫn con gái Hồ Xuân Hương về làng Sơn Dương cạnh làng Gáp để dạy học. Một hôm, nhân ngày Tết Nguyên đán, cậu Tú Kình cùng một số thư sinh đem biếu quà Tết cho cụ đồ Hồ Sĩ Danh, thân sinh Hồ Xuân Hương, bị Hồ Xuân Hương ra câu đối:
- Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới
- Tú Kình đối lại: Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào
- Nhờ câu đối này, Tổng Cóc cưới Hồ Xuân Hương về làm vợ kế, đương nhiên bị vợ cả và con cái bất bình, nhưng vì “trai làm nên lấy năm bảy vợ”, nên họ phải ngậm đắng nuốt cay. Một lần vợ chồng có va chạm, Tổng Cóc giận dỗi viết thư trách móc để dưới gối rồi bỏ đi xa một thời gian, khi Tổng Cóc về thì Hồ Xuân Hương đã không từ mà biệt. Mãi lâu sau Tổng Cóc mới dò la biết Hồ Xuân Hương đang sống trong phủ Vĩnh Tường, tính đếm ngày tháng, Tổng Cóc biết Hồ Xuân Hương đã sinh đẻ. Ông đến phủ Vĩnh Tường chỉ dám lân la ngoài phố, chờ con sen trong phủ ra hỏi mới biết được con gái Hồ Xuân Hương đã chết khi sinh ra. Tổng Cóc đành tay không ra về, ông viết mấy câu đối tỏ vẻ nuối tiếc như sau:
- Thảo lai băng ngọc kính (Nói đến tấm gương bằng ngọc)
- Xuân tận hóa công hương (Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân)
- Hai câu này hiểu theo nghĩa đen là: “Tấm gương trong trắng ví với người con gái trong trắng, nhưng khi hết xuân thì thợ trời cũng chịu”.
- Độc bằng đan quế thượng (Chi bằng lúc ta vin cành quế đỏ)
- Hỏa phóng bích hoa hương (Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm)
- Hai câu này hiểu theo nghĩa đen là: “Chỉ biết dựa vào phúc đức, con cháu khi ấy hương thơm sẽ tỏa khắp muôn nơi”.
Đối đáp với ông đồ Bút
[sửa]- Khi tiếp chuyện một ông đồ tên là Bút ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Hồ Xuân Hương (có một thời cùng gia đình sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, nay là vùng vườn Bách Thảo, Hà Nội), ra vế đối: Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt.
- Ông đồ Bút đối lại: Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa
- “Bảng” (trong “bảng vàng”) cùng âm với “bảng” (trong “Đình Bảng”); tương ứng với “xuân” (trong “xuân xanh”) cùng âm với “xuân” (trong “Khán Xuân”) của vế ra.
Đối đáp với Dương Trí Tản
[sửa]Một lần về quê nội Quỳnh Đôi, Hồ Xuân Hương cũng đối đầu ngang ngửa với các sĩ tử, ông đồ- những người ngưỡng mộ bà lũ lượt kéo tới nhà để xem mặt, bắt...hồn thơ, xem có đúng "danh bất hư truyền" như người đời tán tụng không? Trước mặt họ là một người đàn bà nhan sắc chưa phải chim sa cá lặn, dung mạo cũng chẳng phô bày nhung lụa, phấn son, nhưng phong thái đoan trang, ngôn từ lịch thiệp, lại nổi tiếng về trình độ học vấn, giỏi thơ nôm, khiến ai cũng cảm thấy hài lòng, mến mộ. Cuộc thi tài diễn ra ngay tối đầu tiên, tất cả các sĩ tử, văn nhân đều bị đánh bại, riêng ông đồ Dương Trí Tản - tính tình ngang ngạnh, tự phụ, là ra vẻ bất cần. Chờ cho đám bạn bè thất trận đi vãn ông mới thủng thẳng tìm đến ra mắt người đẹp. Rít xong điếu thuốc lào, nhả khói mù mịt gian phòng, Trí Tản cố tình ứng khẩu lại bài thơ đã chuẩn bị sẵn:
- Eo lưng thắt đáy thật là xinh, điếu ai hơn được điếu cô mình, thoắt châm thoắt bén duyên hương lửa, càng núc càng say tính với tình
- Hồ Xuân Hương đối: Giương oai giễu võ thật là kinh, danh tiếng bao năm đã Tản mình, thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa, tài Trí ra sao hỏi tính tình?
- Bài thơ tỏ rõ bản lĩnh nhanh nhạy, sắc sảo và cũng không kém phần thẳng thắn, quyết liệt của Hồ Xuân Hương, dùng chính cái tên của ông đồ rởm, gõ đầu trẻ không xong, còn đòi gõ đầu Hồ Xuân Hương? Mượn điếu bát để tỏ tình thân...gái, chưa được gái già này cho phép đã tính chuyện ái ân (hương lửa) trong khi Xuân Hương có cả đống người chạy theo tán tỉnh nơi kinh kỳ, đô hội còn không được nữa là người nghiện thuốc lào, suốt ngày hun khói mù trời, ăn nói ngạo mạn, xấc xược như ông ta. Xuân Hương là con người bằng xương, bằng thịt, thích cảm xúc êm dịu, tao nhã, chứ đâu phải cái điếu bát trơ khấc, để ông muốn bén duyên hương lửa, ân ái vợ chồng lúc nào là có thể đè ra như đè điếu được? Bên cạnh đó còn có cả họ tên của ông Dương cũng được lồng ghép vào. Vừa song phi đã ngã ngựa, ông Trí không dám giữ bộ mặt dương dương tự đắc nữa mà nhân lúc mọi người tản đi vì trời khuya, bèn bấm bụng rút lui, thua tài trí Xuân Hương và trở thành bằng hữu. Từ đó ông ta thôi ti toe, không còn giở thói đàn anh, bắt nạt, lấn lướt, lớp nho sinh, văn sĩ trong làng nữa.
Năm 1788, sau khi treo ba chữ “Cổ Nguyệt Đường” lên, khiến khách văn chương thành Thăng Long tò mò kéo đến tấp nập. Hồ Xuân Hương đã nổi hứng ra vế đối hiểm hóc:
- Gái Cổ Nguyệt chơi Hồ cổ Nguyệt, Nguyệt Nguyệt bằng quân tử trượng phu.
- Trong vế đối hai chữ ‘nguyệt” ghép lại thì thành chữ “bằng” (朋), chữ “bằng” ở đây có nghĩa là bằng hữu. Vế đối ngầm khoe bàn bè bằng hữu của Cổ Nguyệt Đường đều là bậc quân tử trượng phu.
- Phải mấy năm sau, Dương Trí Tản mới đối lại được như sau: Trai Kỳ Sơn chơi núi Kỳ Sơn, Sơn Sơn xuất anh hùng hào kiệt.
- Tuy nhiên, những người am tường Hán học bình luận rằng vế đáp của Dương Trí Tản chưa chỉnh so với vế đối của Hồ Xuân Hương, vì tuy vế sau hai chữ “sơn” ghép với nhau thì thành chữ “xuất”, nhưng vế trước chữ “Kỳ” không ghép được với chữ “sơn” để nên nghĩa như chữ “cổ” ghép với chữ “nguyệt”. Cũng giai thoại này nhưng có thuyết khác lại chép vế ra rằng: Gái Vọng Nguyệt chơi giăng vọng nguyệt, (Nguyệt 月) (nguyệt 月) (bằng 朋) tể tướng công khanh. Ở đây có tên làng Vọng Nguyệt (làng Vọng), huyện Yên Phong, tỉnh bắc Ninh là làng nhiều người đậu tiến sĩ. Ý nói, gái làng Vọng Nguyệt chỉ chơi "giăng vọng nguyệt" là trăng rằm, và kết bạn (bằng 朋) với ai có tài làm tể tướng. Vế đối như sau: Trai Tam Sơn đứng núi Tam Sơn, (Sơn 山) (sơn 山) (xuất 出) anh hùng hào kiệt. Làng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn; nay là thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng có 2 Trạng nguyên là Nguyễn Quang Quan và Ngô Miễn Thiệu.
- Vọng nguyệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong) xưa có tên là làng Ngột Nhì. Người họ Chu đến đây khai cơ lập nghiệp đầu tiên. Sau khi ông tổ họ Chu mất, mộ ông được đặt ở đồng Đống Tranh, nhìn xuống một cái ao bán nguyệt. Do vậy, làng được đặt tên tự là Vọng Nguyệt. Vọng Nguyệt nghĩa là trong trăng, đẹp và thơ mộng đến kỳ ảo. Đây là một làng cổ mang đầy đủ bản tính của quê hương Bắc Ninh trong truyền thống: anh hùng và trữ tình. Tính anh hùng được biểu hiện rõ trong câu chuyện dân gian và mối tình sử giữa chàng trai làng Vọng Nguyệt Chu Đình Dự và công chúa Lý Nguyệt Sinh. Họ gặp nhau trong ngày hội xuân và trai tài, gái sắc đã nên nghĩa trăm năm. Gặp khi giặc Tống xâm lấn nước ta, họ đã lập đội dân binh, góp phần vào chiến thắng hào hùng trên sông Như Nguyệt mùa xuân 1077. Nay, Vọng Nguyệt vẫn còn đền thờ Nguyệt Sinh công chúa, mối duyên tình kỳ ngộ giữa người con gái Vọng Nguyệt Chu Thị Bột và chàng thư sinh Tam Sơn Ngô Sử Toàn đã để lại cho người đời một đôi câu đối như trên mà sự kết hợp giữa chữ tình và chữ tài thật quả tùng lai ít thấy.
- Gần đây, có người là Hồ Bá Quỳnh xin đổi lại câu của Dương Trí Tản như sau:
- “Trai Nhân Sơn gặp tiên Nhân Sơn, sơn sơn xuất công hầu khanh tướng”
- Về phía Tây Nam cách làng Quỳnh Đôi khoảng 3km có làng Nhân Sơn. Nay thuộc xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Lưu gần thị trấn Cầu Giát. Ngay trong làng ấy có hòn núi gọi là Lèn Nhân Sơn rất đẹp. Núi Nhân Sơn nay đã bị phá đá nung vôi gần hết. Nhưng truyền thuyết vẫn còn vì đã đi vào lòng dân. Truyền thuyết kể rằng: Nhiều đêm trăng thanh gió mát người ta tưởng thấy các cô tiên thưởng nguyệt cạnh các ông tiên đánh cờ. Dưới chân núi có ngôi đền cổ nhân dân thường hương khói lễ vật phụng thờ. Câu đối này đảm bảo được chữ Nhân là người ghép với chữ Sơn là núi thì thành chữ Tiên (ông Tiên, cô tiên) và hai chữ sơn ghép lại thành chữ xuất như ông Dương Trí Tản đối.
Hồ Bá Quỳnh biệt danh là ông “vua hiến kế” (nguyên cán bộ Ủy ban vật giá tỉnh Nghệ An, ngụ xã Quỳnh Bảng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) vị Tiến sĩ được coi là một trong những cha đẻ của ý tưởng “Hưu nông dân”, có hàng trăm tờ trình ở tầm kinh bang tế thế, quốc kế dân sinh... làm lợi cho cộng đồng nhiều tỉ đồng, nhưng lại không nuôi nổi vợ con
Hồ Xuân Hương và Khâm sai đại thần
[sửa]- Khi Gia Long diệt được nhà Tây Sơn, tiến ra Bắc Hà, viên khâm sai lúc bấy giờ được lệnh đi kinh lý các tỉnh có gặp Hồ Xuân Hương để xin câu đối. Bà liền viết:
- Thiên tử tinh kỳ đương bán diện (Che nửa mảnh rực cờ thiên tử)
- Tướng quân thanh thế áp tam thuỳ (Trấn ba góc, rõ tài tướng quân)
- Câu đối trên có nghĩa đen là: Cờ xí của nhà vua treo khắp mọi nơi, che nửa mặt người. Uy danh của vị khâm sai rất to lớn, bao trùm cả ba cõi. Câu đối được treo lên, vua Gia Long nắc nỏm khen, bàn dân thiên hạ cười mủm mỉm, còn quan bé, quan to giật điếng người...vì phong cách nghịch ngợm của Hồ Xuân Hưng chẳng giấu vào đâu được, khen vua mà lại xỏ ngầm chết vua đấy. Bán diện nghĩa là khuôn mặt chia ra làm hai nửa theo chiều dọc, còn áp tam thuỳ...chỉ khác gì áp vào cái chỗ ba góc da còn thiếu ấy? Đến nỗi chúa dấu vua yêu một cái này thì tướng quân dại gì buông tha? Câu đối được hiểu theo nghĩa ngầm rằng:
- Che nửa mặt, rực cờ Thiên tử
- Trấn ba góc, rõ tài tướng quân
Nguyễn Thị Hinh (1805 - 1848)
[sửa]- Bà huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, bà sinh quán tại làng Nghi Tàm, huyện Thọ Xương (nay là Hoàn Long, tỉnh Hà Đông). Bà lập gia đình với ông Lưu Nghị, tự là Lưu Nguyên Uẩn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ cử nhân khoa Tân Tỵ, năm Minh Mạng thứ hai, được bổ làm tri huyện Thanh Quan. Do đó nữ sĩ được gọi là Bà huyện Thanh Quan hay Bà Thanh Quan. Trong Nam thi hợp tuyển của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc có đề cập về chồng của nữ sĩ như sau: "Chồng bà là ông Lưu Nguyên Uẩn, sinh năm 1804, đậu tú tài năm 1825, cử nhân năm 1828 và được bổ nhiệm làm tri huyện Thanh Quan. Ông huyện Thanh Quan vì can án phải cách, bổ làm Bát phẩm thơ lại Bộ hình. Sau lại thăng lên chức Viên ngoại lang". Bà từng viết một câu đối Tết như sau:
- Duyên với văn chương nên dán chữ
- Nợ gì trời đất phải trồng nêu
- Nhờ có tài văn chương lỗi lạc, Bà Huyện Thanh Quan được vua Tự Đức vời vào cung và phong chức Cung trung Giáo tập để dạy cho các cung nhân học. Trọng tài học của bà, vua Tự Đức có ban cho bà được đề thơ vào một cái chén cổ, có bức hoạ sơn thuỷ. Bà đã ứng khẩu đọc hai câu:
- In như thảo mộc trời Nam lại
- Đem cả sơn hà đất Bắc sang
- Câu đối trên ý là: loại trà để pha là loại trà quý của Đại Nam, phải dùng loại chén sứ quý nổi tiếng của Trung Hoa (có vẽ hình núi sông) mới xứng tầm.
Sương Nguyệt Ánh (1864 - 1921)
[sửa]Sương Nguyệt Ánh là con gái thứ 5 của ông Đồ Chiểu, tên thật là Nguyễn Thị Xuân Khuê hiệu là Nguyệt Ánh, sau khi goá chồng mới thêm chữ Sương (tục gọi cô Năm Hạnh). Một hôm, ông Đồ Chiểu vừa ra khỏi nhà, có 2 chàng thanh niên tên là Giảng và Xương đến mượn tiếng chơi cờ và bình luận thơ văn để tán tỉnh cô. Cô Năm Hạnh liền ra một vế đối: Đằng tiểu quốc, sợ Tề hồ, sợ Sở hồ (lấy ý trong bài thơ dịch trong sách Mạnh Tử nghĩa là: Đằng quốc xưa này phận nhỏ nhen, trên chi Tề-Sở ép hai bên, quay đầu sang Sở e Tề giận, ngoảnh mặt về Tề sợ Sở ghen)
- Hai chàng nhăn mặt, bối rối tìm câu đáp lại. Giảng còn ngẫm nghĩ, Xương lên tiếng: Nga đại trượng, phạt quách hí, phạt Sở hí (lấy ý trong bài thơ dịch trong Hán Thư nghĩa là: có ai đương nổi gậy dài ta, ngang dọc tung hoành đủ lối mà, đánh Quách ghê hồn quân xếp giáp, phá tan quân Sở tiếng đồn xa)
- Cô Năm thẹn, bỏ vào nhà trong; hai chàng nhìn nhau bối rối, lỡ ở lỡ về. Lát sau, một em bé ra trao cho hai chàng một mảnh giấy, vỏn vẹn có hai câu:
- Chiêu Quân nhan sắc nghe ra uổng
- Tây Tử phong lưu nghĩ lại buồn
- ::Câu này ngụ ý rằng: nàng Chiêu Quân lẫn nàng Tây Thi là cô Xuân Khuê đã chê cả hai chàng! Hai chàng ôm hận đành ra về. Chàng Giảng trách bạn: "Lại khoe "gậy" dài..." Chàng Xương nói: "Thì "đại" đối với "tiểu" chỉnh quá đi chứ!". Giảng nói: "Ừ chỉnh! Người ta vác "gậy" đuổi về đó!"
- Ít lâu sau, Sương Nguyệt Ánh lấy phó tổng Nguyễn Công Tính, sinh được một bé gái là Nguyễn Thị Vinh thì chồng chết. Nhiều người "ngấp nghé", trong số đó có thầy Bảy Nguyệt nộp đơn với bài thơ tứ tuyệt:
- Ai về nhắn với Nguyệt Anh Cô, chẳng biết lòng cô tính thế mô! không phải vãi chùa sao đóng cửa? đây lòng gấm nghé bắc cầu ô.
- Sương Nguyệt Ánh họa: Chẳng phải tiên cô cũng đạo cô, cuộc đời dâu bể biết là mô! lọng sườn dầu rách còn kêu lọng, ô bịt vàng ròng tiếng vẫn ô.
- Sợ Thầy Bảy vẫn theo đuổi, cô hoạ thêm một bài dứt khoát: Phải thời cô quả chịu thời cô, chẳng biết tuồng đời tính thế mô? dòm thây bụi trần toan đóng cửa, ngọc lành chi để thẹn danh ô.
- Nhưng nào đã hết đâu những kẻ trêu hoa ghẹo nguyệt, một ông tên Phủ Học cũng gởi bài thơ bông lơn:
- Phải gần với Nguyệt lúc lưng vơi, đặng hỏi Hằng Nga những sự đời, ở hạ mây mưa còn kém sắc, vì thu non nước tố cùng nơi, hay trông Dữu Lượng xây lầu trước, hoặc đợi Thanh Liêm cất chén vời? vóc ngọc há sờn cơn gió bụi, tài tình rõ mặt khó đua bơi
- Sương Nguyệt Ánh đáp lại bằng bài thơ cự tuyệt: Đường xa vời vợi dặm chơi vơi, nghĩ nỗi mây xanh ngán tự đời, biển ái nguồn ân còn lắm lúc, mây ngàn hạc nội biết đâu nơi! một dây oan trái rồi vay trả, mấy cuộc tang thương há đổi vời! chước quỷ mưu thần âu những kẻ, gặp cơn nguy hiểm khó đua bơi!
- Cũng như thầy Bảy Nguyệt, cô bồi thêm cho một bài nữa: Hết lúc trăng đầy đến lúc vơi, danh hưu trong cuộc phải coi đời, vén mây bắn thỏ xa ngàn dặm, dây ước cung thiên tỏ khắp nơi, nội tri đứa vang hiềm kẻ rạng, vui lòng đứa triết thú đua vời, khi dòng Hối thực ưng ra mặt, đứng giữa trời xanh tiết chẳng bơi!