Câu đối liên quan đến Phật giáo

Bộ sưu tập danh ngôn mở Wikiquote

Câu đối về Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát[sửa]

Nam Hải Cổ Phật, người đời đều gọi là Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài tay cầm tịnh bình cắm cành dương liễu; Quán Thế Âm Truyền ghi chép rằng: Trường Mi trưởng lão tặng chiếc bạch ngọc tịnh bình cho Diệu Thiện Đại Sư và nói rằng: “ khi nhìn thấy trong tịnh bình sinh ra nước, trong nước mọc ra cành dương liễu, đấy chính là ngày mà ngài đắc đạo đấy ”. Từ đấy con người ta có thể hội ra rằng muốn khiến cho tịnh bình sinh ra nước thì nhất định cần phải mở nút tịnh bình ra, ý này tức là một chỉ điểm của Minh Sư mở ra huyền quan khiếu. Ở hai bên của tượng phật Quán Thế Âm Bồ Tát thông thường có viết một bức câu đối như sau :

紫竹林中觀自在 Tử trúc lâm trung Quán Tự Tại
白蓮座上現如來 Bạch liên tòa thượng hiện Như Lai

Tạm dịch :

Trong rừng trúc tía có vị Bồ Tát Quán Tự Tại
Trên tòa sen trắng hiện vị Phật Như Lai
Ý nghĩa của câu đối này : Tử trúc lâm là hình dung lông mày của con người. “ Tử trúc ” là một loại trúc rất mỏng mảnh, rất đẹp. “ Lâm 「林」” : không nhiều cũng không ít gọi là lâm, nếu như rất ít chỉ có một cây thì gọi là mộc 「木」, rất nhiều thì gọi là sâm 「森」. Bởi vì lông mày của chúng ta rất chỉnh tề, rất đẹp, vả lại chẳng nhiều cũng chẳng ít, từ nhỏ cho đến lúc già thay đổi cũng chẳng lớn, chẳng nhiều và sẽ mọc dài như là tóc, do đó tử trúc lâm là dùng để hình dung lông mày. Quán tự tại : Quán là quán xem; Tự (自) là một điểm chơn nhân trong mắt (目); Tại (在) là một người ở chỗ của Trung Ương Mậu Kỉ Thổ ( 一人土) , Quán Tự Tại cũng chính là đi hồi quang phản chiếu chỗ mà Minh Sư đã chỉ điểm cho. “ Quán Tự Tại ” là Vị Quán Thế Âm Bồ Tát ở chính giữa mà Thiện Tài Long Nữ triều bái. Điều mà Thiện Tài Long Nữ chỉ chính là hai con mắt của chúng ta – một âm, một dương, quy y Quán Thế Âm Bồ Tát; hai con mắt của chúng ta cũng giống như là một trong lục tặc ( 6 tên trộm ), cần phải thông qua việc cầu đạo tu tâm mới có thể nghe lệnh của tự tánh lương tâm, mới có thể lúc nào cũng dựa vào lương tâm để làm việc, đấy chính là Phật rồi. Vị “ Phật ” này ở đâu vậy ? Đấy là ám thị cho người đời từ trong hình tướng này để đi lãnh ngộ chân lý. Tự tánh của con người chính là ở chỗ …Phải thường dùng hai con mắt đi quán sát triều bái, nhãn thần ngưng tụ ở Chí Thiện Địa nơi linh tánh vào ra, tức là tu tâm đấy. Bạch Liên tòa thượng hiện Như Lai, nghĩa là ở trên mặt nước (口 khẩu – miệng)nổi một đóa hoa sen trắng ( Nhân trung – đại biểu cho cuống hoa sen; đầu mũi giống như cánh hoa ấy chính là tòa sen màu trắng ); mặt nước đại biểu cho môi của con người; đôi môi hợp lại giống như sóng nước vậy, còn miệng thì giống như biển, như cái hố khổ điền ( đắp ) chẳng đầy. Trên tòa hoa sen hiện ra một vị Như Lai – Phật tánh, chính là chỗ Minh Sư đã chỉ điểm. Phật Như Lai 如來 ví như trên mặt của mỗi người đều có một vị Phật. Mặt của con người giống với chữ Lai 「來」( = 十 人人人). Một nhân 人lớn chính giữa của chữ Lai 「來」đại biểu cho phật tánh tự tánh, tức là linh tánh, do vậy tu tâm tu tánh, bản thân tức là Phật, sao có thể hướng ra bên ngoài cầu Phật?

Những câu đối Phật Pháp sử dụng trong mùa Vu Lan rằm tháng 7[sửa]

岂有此理说也不信
真正绝妙到者方知
Khởi hữu thử lý thuyết dã bất tín
Chân chính tuyệt diệu đáo giả phương tri

Nghĩa là:

Há có lẽ này nói không tín
Chân chính tuyệt diệu đến mới hay

一堂佛相闷的闷笑的笑观众生苦多乐少

万岁君王忧民忧乐民乐愿四海雨顺风调

Nhất đường Phật tương muộn đích muộn tiếu đích tiếu quan chúng sinh khổ đa lạc thiểu
Vạn tuế quân vương ưu dân ưu lạc dân lạc nguyện tứ hải vũ thuận phong điều

Nghĩa là:

Một nhà mặt Phật có vị buồn có vị vui, thấy chúng sinh vui đâu bằng khổ
Muôn tuế quân vương buồn cái buồn của dân, vui niềm vui của dân, cầu bốn biển gió thuận mưa hoà

僧是空道是空芸圃三界更是空是空尚迷空世上无非空色相

穷亦活富亦活花甲百歲终亦活亦活怕不活人间哪有活神仙

Tăng thị không đạo thị không vân phố tam giới canh thị không thị không thượng mê không thế thượng vô phi không sắc tương
Cùng diệc hoạt phú diệc hoạt hoa giáp bách tuế chung diệc hoạt diệc hoạt phạ bất hoạt nhân gian ná hữu hoạt thần tiên

Nghĩa là:

Tăng là không, đạo là không bủa vây tam giới cũng là không, là mê cái không trong thế giới không, thế gian không gì là không sắc tướng
Nghèo cũng sống, giàu cũng sống, tuổi đến một trăm cũng phải sống, không có nhân gian sống sao có thần tiên sống

是僧皆佛印

无客不东坡

Thị tăng giai Phật ấn
Vô khách bất đông pha

Nghĩa là:

Tăng kia đều là Phật Ấn
Khách nọ há không phải Đông Pha

无半点良心何须拜佛

有一丝善意也可来朝

Vô bán điểm lương tâm hà tu bái Phật
Hữu nhất ty thiện ý dã khả lai triêu

Nghĩa là:

Không nửa chút lương tâm cần gì bái phật
Có một chút thiện ý cũng được đến chầu

心即佛佛即心须要认清脚跟

色是空空是色莫教妄起念头

Tâm tức Phật Phật tức tâm tu yếu nhận thanh cước cân
Sắc thị không không thị sắc mạc giáo vọng khởi niệm đầu

Nghĩa là:

Tâm là Phật Phật là tâm cần phải nhận rõ chân gót
Sắc là không không là sắc chớ cho vọng niệm khởi đầu

终日解其颐笑世事纷纭曾无了局

经年袒乃腹看胸怀洒落却是上乘

Chung nhật giải kỳ di tiếu thế sự phân vân tằng vô liễu cục
Kinh niên đản nãi phúc khan hung hoài sái lạc khước thị thượng thừa

Nghĩa là:

Ngày ngày má núng nụ cười, cười thế sự rối ren chưa từng kết thúc
Năm năm bụng hở to phềnh, từng câu chữ thế lại thượng thừa

布袋全空容甚物

跏趺半坐笑何人

Bố đại toàn không dung thậm vật
Già phu bán toạ tiếu hà nhân

Nghĩa là:

Túi vải trống không chứa gì vậy
Vắt chân chữ ngũ cười những ai

我何为托号丰干本愿普度众生指引迷途莫上名场夸得意

汝尚可及时忏悔从此皈依三宝波罗般若岂犹苦海叹无边

Ngã hà vi thác hiệu phong can bản nguyện phổ độ chúng sinh chỉ dẫn mê đồ mạc thượng danh trường khoa đắc ý
Nhữ thượng khả cập thời sám thiên hối tòng thử quy y tam bảo ba la ban nhược khởi do khổ hải thán vô biên

问菩萨缘何倒坐

笑世人不肯回头

Vấn bồ tát duyên hà đảo toạ
Tiếu thế nhân bất khẳng hồi đầu

Nghĩa là:

Hỏi bồ tát cớ gì ngồi ngược
Cười thế nhân chẳng chịu hồi đầu

Câu đối sử dụng chung ở các chùa chiền chưa rõ xuất xứ[sửa]

Đức đại yên dân thiên cổ thịnh (Đức lớn giúp dân lưu muôn thuở)
Công cao hộ quốc vạn niên trường (Công cao giữ nước rạng ngàn thu)
Bên hồ dựng chùa thiền, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội
Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa
Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già dựng xây pháp tràng khắp chốn
Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi
Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Phật tức tâm, tâm tức Phât, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông
Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ
Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần
Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái
Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê
Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật linh linh như cảnh sắc
Đài sen vắng lặng, vần mây hiển hiện tường quang
Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác
Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê
Gặp cảnh thâm u cỏ nội hoa đồng quên năm tháng
Ở non khoán hoạt, chuông chiều mõ sớm rõ sắc không
Bỏ hết Tham , Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ
Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm là thánh tâm
Gặp cảnh u thâm, mõ sớm chuông chiều tiêu lũy kiếp
Ở nơi khoáng đạt, hoa đồng cỏ nội ngộ ba sinh
Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ
Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền
Tâm trí tuệ mở bày, vạn kiếp hôn mê liền dứt sạch
Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong
Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác
Cửa Phật quảng đại, ra vào tùy duyên
Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mĩm miệng
Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần
Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm
Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu
Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác
Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê
Cửa trai thiền nương tựa chửa bao lâu, dịp dàng như sư dạy, kinh kệ sư rèn, hương thắp đèn khêu khấn nguyện những mong sư mạnh khỏe
Đường xa tịnh độ xa khơi nên phút chốc, chuông trống vãi khua, chùa chiền vãi quét, hoa dâng quả cúng, sớm khuya nỡ để vãi chơ vơ

海到无边天是岸

山登绝顶雪为峰

Hải đáo vô biên thiên thị ngạn

Sơn đăng tuyệt đỉnh tuyết vi phong

(Biển đến không bờ trời thành bến

Núi lên tận đỉnh tuyết thành nóc)

龙藏钵虎参禅野性都从空里化

鹿含花猿献果天机总向偈中生

Long tàng bát hổ tham thiền dã tính đô tòng không lý hoá

Lộc hàm hoa viên hiến quả thiên ky tổng hướng kệ trung sinh

(Rồng ẩn bát, hổ tham thiền, dã tính đều từ không mà hoá

Nai ngậm hoa, vượn dâng quả, thiên cơ sinh tự kệ nhà thiền)

白水秋风此是峨眉胜景

弥勒楼阁俨如兜率道场

Bạch thuỷ thu phong thử thị nga my thắng cảnh

Di lặc lâu các nghiễm như đâu suất đạo trường

(Nước trắng, gió thu đây là Nga My thắng cảnh

Lầu gác Di Lặc, nghiễm nhiên chẳng khác Đâu Suất )

真知出实践

妙理贵躬行

Chân tri xuất thực tiễn

Diệu lý quý cung hành

(Hiểu biết chân thật từ thực tế

Lẽ nhiệm mầu quý tại thực hành)

天空朱霞云中白鹤

山间明月江上清风

Thiên không châu hà vân trung bạch hạc

Sơn gian minh nguyệt giang thượng thanh phong

(Trời rộng ráng hồng trong mây hạc trắng

Núi sâu trăng sáng, gió mát sông trong)

山现莲花峰自然自在

云藏舍利塔如见如来

Sơn hiện liên hoa phong tự nhiên tự tại

Vân tàng xá lợi tháp như kiến như lai

Núi hiện đỉnh hoa sen tự nhiên tự tại

Mây che tháp Xá Lợi như thấy Như Lai

灵山我数阿罗汉

佛海人参大肚僧

Linh sơn ngã sổ A la hán

Phật hải nhân tham Đại đỗ tăng

Linh sơn ta đếm A la hán

Biển Phật người thành đại đỗ tăng

弥勒真弥勒分身千百亿

时时示时人时人自不识

Di lặc chân di lặc phân thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhân thời nhân tự bất thức

Di Lặc thật Di Lặc phân thân thành ức vạn

Thường thường tỏ người thường, người thường chẳng hay

乾坤容我静

名利任人忙

Càn khôn dung ngã tĩnh
Danh lợi nhậm nhân mang

Đất trời cho ta lặng

Danh lợi mặc người say

无住荫慈云葱岭祇竹明法果

真常扬慧日鹫峰鹿苑在当前

Vô trú âm từ vân thông lĩnh kì trúc minh pháp quả

Chân thường dương tuệ nhật thứu phong lộc uyển tại đương tiền

Vô trụ bủa mây từ, núi xanh trúc lạ rõ thêm pháp quả

Chân thường nêu trời tuệ, đỉnh Thứu, vườn Nai tại nhãn tiền

潮汐撼危崖澎渤涛声即是观音示现

海天开净土庄严世界居然正法如来

Triều tịch hám nguy nhai bành bột đào thanh tức thị quan âm thị hiện

Hải thiên khai tịnh thổ trang nghiêm thế giới cư nhiên chính pháp như lai

Thuỷ triều lay vách đá, tiếng sóng dạt dào tức là quan âm thị hiện

Biển trời thành tịnh độ, trang nghiêm thế giới khác nào chính pháp như lai

西方贝叶演真经总不出戒定慧三条法律

南海莲华生妙相也自消闻思修一味圆通

Tây phương bối diệp diễn chân kinh tổng bất xuất giới định tuệ tam điều pháp luật

Nam hải liên hoa sinh diệu tươngdã tự tiêu văn tư tu nhất vị viên thông

Diễn giải chân kinh lá bối tây phương luôn chẳng vượt ngoài giới đinh tuệ tam vô lậu học

Tướng tốt từ hoa sen nam hải nẩy thành cũng tự tiêu văn tư tu một mạch viên thông

一日两度潮可听其自来自去

千山万重石莫笑他无觉无知

Nhất nhật lưỡng độ triều khả thính kỳ tự lai tự khứ

Thiên sơn vạn trùng thạch mạc tiếu tha vô giác vô tri

Một ngày hai lần thuỷ triều lên xuống, nghe được nó tự đến tự đi

Nghìn núi muôn trùng đá, chớ cười nó vô giác vô tri

三业相应往生有份

六根都摄见佛无难

Tam nghiệp tương ưng vãng sinh hữu phần

Lục căn đô nhiếp kiến Phật vô nan

Ba nghiệp tương ưng vãng sinh có phận

Sáu căn đều giữ, thấy Phật khó đâu

鱼鼓响时打点钵孟问天谁识饭是米做

象龙集处咀嚼菜根有味方知舌在口中

Ngư cổ hưởng thời đả điểm bát mạnh vấn thiên thuỳ thức phạn thị mễ tố

Tượng long tập xứ thư tước thái căn hữu vị phương tri thiệt tại khẩu trung

Chuông mõ khua lên gõ bát hỏi trời cao, ai hay cơm từ gạo chín

Nơi rồng voi hội tụ, nghiền ngẫm cọng rau có vị mới hay lưỡi ở trong mồm

此处既非名山毕竟什么世界

其中如无活佛何用这样庄严

Thử xứ ký phi danh sơn tất cánh thập ma thế giới
Kỳ trung như vô hoạt Phật hà dụng giá dạng trang nghiêm

Nghĩa:

Chốn này vốn chẳng phải danh sơn, rốt cục là thế giới nào vậy
Trong kia nếu không có Phật sống, việc gì phải trang trọng thế kia

过此门不许你七颠八倒

到这里哪管他五眼六通

Quá thử môn bất hứa nhĩ thất điên bát đảo
Đáo giá lý ná quản tha ngũ nhãn lục thông

Nghĩa:

Qua cửa này đây, anh chẳng thể thất điên bát đảo
Đến trong chốn đó, chẳng sợ nó có ngũ nhãn lục thông

大叩大鸣小叩小鸣普觉梦中之梦

一声一佛千声千佛遥闻天外之天

Đại khấu đại minh tiểu khấu tiểu minh phổ giác mộng trung chi mộng
Nhất thanh nhất Phật thiên thanh thiên Phật diêu văn thiên ngoại chi thiên

Nghĩa:

Đánh lớn kêu vang, đánh khẽ không rền thức tỉnh khắp người mộng trong mộng
Một lời một phật, nghìn lời nghìn Phật nghe thông trời ở ngoài trời

手上只一金元你也求他也求未知给谁是好

心中无半点事朝来拜夕来拜究竟为何理由

Thủ thượng chỉ nhất kim nguyên nhĩ dã cầu tha dã cầu vị tri cấp thuỳ thị hảo
Tâm trung vô bán điểm sự triêu lai bái tịch lai bái cứu cánh vi hà lý do

Nghĩa:

Trên tay chỉ một mẫu vàng, nó cũng cầu, anh cũng câu, chẳng hay cho ai mới phải
Trong lòng chẳng bận chút phiền, sớm đến lạy chiều đến lạy, đâu biết rốt cục vì lí do gì

鹫岭拈来有何消息露在一枝引得破颜迦叶笑

鸡山胜处岂非形势埒于三尺要将唤醒世人迷

Thứu lĩnh niêm lai hữu hà tiêu tức lộ tại nhất chi dẫn đắc phá nhan Ca Diệp tiếu
Kê sơn thắng xứ khởi phi hình thế liệt vu tam xích yếu tương hoán tỉnh thế nhân mê

Nghĩa:

Có tin gì từ đỉnh núi Thứu, sương điểm trên cành cũng khiến ca diếp mỉm cười
Thắng cảnh Kê sơn há không hình thế, cao ngang ba thước, rồi đây gọi tỉnh thế gian mê

存心能正大光明即不来许个愿磕个头这神自然保护

做事如奸滑阴险也还想消些灾降些福恐尔亦太糊涂

Tồn tâm năng chính đại quang minh tức bất lai hứa cá nguyện hạp /khái /khải cá đầu giá thần tự nhiên bảo hộ
Tố sự như gian hoạt âm hiểm dã hoàn tưởng tiêu ta tai giáng /hàng ta phúc khủng nhĩ diệc thái hồ /hỗ đồ

Nghĩa:

Biết giữ lòng chính đại quang minh dù không đến phát nguyện cúi đầu nhưng thần kia tự nhiên che chở
Làm việc cứ gian manh âm hiểm lại muốn tiêu tai giáng phúc e rằng làm thế quá hồ đồ

要虚体面费尽心机何如此地清闲看滚滚潮流把古今来治乱兴亡都付与大江东去

登最上头放开眼界且向苍天呼吁问泱泱祖国积千百载庄严灿烂岂竟随皎日西沉

Yếu hư thể diện phí tận tâm cơ hà như thử địa thanh nhàn khan cổn cổn triều lưu bả cổ kim lai trị loạn hưng vong đô phó dữ đại giang đông khứ
Đăng tối thượng đầu phóng khai nhãn giới thả hướng thương thiên hô hu vấn ương ương tổ quốc tích thiên bách tải trang nghiêm xán lạn khởi cánh tuỳ hạo nhật tây trầm

Nghĩa:

Cần thể diện hảo huyền mà uổng phí tâm cơ sao bằng chốn đó thanh nhàn xem cuồn cuộn trào lưu, lấy cổ kim trị loạn hưng vong phó mặc cho đại giang xuôi bể
Lên đỉnh tối thượng mở rộng tầm mắt, hướng tới trời xanh mà thở, hỏi mênh mông tổ quốc, chứa nghìn vạn năm trang nghiêm xán lạn há cùng trăng bạc lặng về tây

哼一声诸鬼卒心惊胆战难躲天王宝殿

哈两下众神仙笑逐颜开环瞻佛祖金容

Hanh nhất thanh chư quỷ tốt tâm kinh đảm chiến nan đoá thiên vương bảo điện
Cáp lưỡng hạ chúng thần tiên tiếu trục nhan khai hoàn chiêm Phật tổ kim dung

Nghĩa:

Ho một tiếng lính quỷ hồn xiêu phách tán, khó tránh thiên vương bảo điện
Ngáp hai hơi chúng thần tiền hớn hở vui cười, ngắm quanh Phật tổ kim dung

莫看我庙破神悲不烧香试试

休仗你官大势强作恶事瞧瞧

Mạc khan ngã miếu phá thần bi bất thiêu hương thí thí
Hưu trượng nhĩ quan đại thế cường tác ác sự tiêu

Nghĩa:

Chớ xem miếu ta đổ nát thần sầu cứ không đốt hương xem thử
Đừng cậy quan to thế lớn, thử làm chuyện ác mà coi

亘古迄今谁打破名缰利锁

修行念佛终能脱俗子凡夫

Cắng cổ ngật kim thuỳ đả phá danh cương lợi toả
Tu hành niệm Phật chung năng thoát tục tử phàm phu

Nghĩa:

Tối cổ đến nay mấy ai phá được dây cương bằng danh khoá cùm bằng lợi
Tu hành niệm Phật cuối cùng sẽ thoát được tục tử phàm phu

极乐世界眼前就是须大家领会

菩萨道场心里本有要自己圆通

Cực lạc thế giới nhãn tiền tựu thị tu đại gia lĩnh hội
Bồ tát đạo trường tâm lý bản hữu yếu tự kỷ viên thông

Nghĩa:

Thế giới cực lạc ngay trước mắt mong mọi người lĩnh hội
Tâm đạo tràng bồ tát vốn sẵn nên hãy tự viên thông

深妙圆融笑纳天下事

慈悲大度乐助世间人

Thâm diệu viên dung tiếu nạp thiên hạ sự
Từ bi đại độ lạc trợ thế gian nhân

Nghĩa:

Sâu thẳm nhiệm mầu cười dung chuyện thiên hạ
Từ bi độ lượng vui giúp người thế gian

人类本一群骷髅只缘骷髅玩骷髅玩出君臣父子典章文物

世界乃众生色相太息色相吃色相吃成征诛杀伐因果轮回

Nhân loại bản nhất quần khô lâu chỉ duyên khô lâu ngoạn khô lâu ngoạn xuất quân thần phụ tửđiển chương văn vật
Thế giới nãi chúng sinh sắc tươngthái tức sắc tương ngật sắc tương ngật thành chinh tru sát phạt nhân quả luân hồi

Nghĩa:

Nhân loại vốn là bãi xương khô, chỉ vì xương khô chơi với xương khô làm nên phụ tử quân thần nhạc khúc điển chương văn vật
Thế gian chính là chúng sinh sắc tướng, chính vì sắc tướng ăn sắc tướng làm nên giết chóc chinh phạt nhân quả luân hồi

惟大英雄能觉悟

为诸菩萨振纲常

Duy đại anh hùng năng giác ngộ
Vi chư bồ tát chấn cương thường

Nghĩa:

Bậc đại anh hùng mới giác ngộ
Vì các bồ tát lập cương thường.

法 雨 洒 空 庭 ,恍 惚 螽 聲 皆 說 偈

宗 風 繞 靜 室 , 分 明 燈 影 自 昭 花

Pháp vũ sái không đình, hoảng hốt chung thinh giai thuyết kệ;
Tông phong nhiễu tĩnh thất, phân minh đăng ảnh tự chiêu hoa.

Nghĩa:

Mưa pháp rưới sân trống, mang máng giạt sành đều nói kệ
Gió thiền quanh thất vắng, rõ ràng bóng nến tự in hoa.

寶 山 遍 種 菩 提 壽 ;

覺 苑 常 開 智 慧 花

Bảo sơn biến chủng Bồ đề thọ;
Giác uyển thường khai trí huệ hoa

Nghĩa:

Bảo sơn cây Bồ-đề trồng khắp;
Giác uyển hoa trí huệ trỗ đầy.

兩手把山河大地揑他搓圓灑向空中,毫 無色 相 ;

一口 將 先 天 祖氣 吐 來 嚼 去 呑 在 肚 里, 放 大 光 明

Lưỡng thủ bả sơn hà đại địa, niết tha viên sái hướng không trung, hào vô sắc tướng
Nhất khẩu tương tiên thiên tổ khí, thổ lai tước khứ thôn tại đỗ lý, phóng đại quang minh.

Nghĩa:

Hai tay nắm lấy núi sông đất đai, bóp cho nát vụn, rải vào không trung, không còn mảy may sắc tướng.
Một miệng ngậm lấy Tổ khí tiên thiên, nhai tới nhai lui, nuốt vào trong bụng, phóng ra ánh sáng vô cùng.

Những câu đối của Sơn Tăng Như Tùng (1900 - 1945)[sửa]

Nhà sư có tên là Thông Thi (người Sài Sơn vẫn thường gọi là sư Mậu), hiệu là Như Tùng, người Cổ Nhuề. Năm 1930, nhà sư Như Tùng cho ra tác phẩm "Sài Sơn thi lục". Năm 1940, nhà sư Như Tùng cho ra tác phẩm "Sài Sơn Từ thần tăng thực lục". Đại đức Thích Minh Đạo cho biết đôi câu đối trước cổng chân nùi lên chùa Đính Sơn (Chùa Cao) Tàc giả chính là Như Tùng:

Đăng cao tự ti nhất bộ tiến nhất bộ.
Vô vãng bất phục cá quan hựu cá quan

Dịch theo "Non nước Chùa Thầy" của H T Thích Viên Thành:

Muốn lên trên cao thì phải đi từ dưới thấp, mỗi bước lại tiến thêm một bước.
Không có sự ra đi nào mà không trở lại, cổng này đến cổng kia.

Câu đối chữ Nôm ở cổng Trắng (đường từ Thụy Khuê vào chùa Bối Am) là của tác giả Như Tùng:

Xây trụ chia non xanh không ba đường ác.
Trồng hoa ngăn bụi đỏ có một cửa từ.

và:

Trời đất đứng riêng quyền khép mở
Nước non ngăn rộng lối tu hành

Cả hai câu đối trên đều được cụ Nguyễn Huy Vỹ, một cụ túc nho làng Thuỵ Khuê cùng Đại đức Hà trực ghi lại.

Theo Thượng tọa Thích Viên Thành và Đại Đức Hà, Nhà sư Như Tùng còn là tác giả của câu đối:

"Thiên địa do y thiên địa cựu
Thảo hoa kim dị thảo hoa tiền"

Như Tùng tự dịch:

"Trời đất vẫn nguyên trời đất cũ
Cỏ hoa nay khác cỏ hoa xưa"

Hiện trong tam bảo có bức đại tự "Thiên Phúc Đính Tự" hai bên có câu đối của cử nhân Hoàng Thúc Hội:

Dục tú chung linh thử hữu sùng sơn đường Thứu Lĩnh
Ly trần nhập giác khả ư nghiệt hải thiếp kình ba
(Núi hun sông đúc nên anh tú, nơi đây có núi cao sánh cùng non Thứu/ Lìa bụi trần vào cõi giác, làm lắng sóng kình trong bể khổ - Thượng Toạ Thích Trường Xuân dịch)
  • Những câu đối Tết tự vịnh:
Lá phướn phất ngang trời, bốn bể đều trông nêu Phật
Tiếng chuông kêu dậy đất, mười phương cũng tưởng pháo Sư
Mừng xuân hỉ xả thêm công đức
Đón tết từ bi bớt não phiền

Những câu đối liên quan đến THIỀN SƯ THÍCH MẬT KHẾ (1904 - 1935)[sửa]

Thiền Sư Thích Mật Khế họ Lê, quý danh là Chánh. Quê quán làng Thần Phù, xã Thủy Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm Quý Sửu (1913), lên chín tuổi, xuất gia đầu Phật với tổ Giác Tiên, chùa Trúc Lâm, cố đô Huế. Ngài tỏ ra thông minh xuất chúng trước tuổi. Năm Giáp Tý (1924), được đăng đàn thọ Cụ túc giới tại Đại giới đàn Từ Hiếu (Tổ Tâm Tịnh làm Đàn đầu Hòa thượng). Ngài đỗ thủ khoa vào năm 21 tuổi tròn. Pháp danh: Tâm Địa. Pháp tự: Mật Khế. Thuộc giòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 43. Ngài là vị sư trẻ duy nhất được Giáo hội xây tháp phụng thờ và lo liệu mọi nghi lễ trong lúc nhục thân của ngài chưa nhập tháp. Giáo hội đã tặng câu đối:

Khả hạnh giải, chánh đạo bất chung yên, nguyệt san đề xuất, Phật học liên trường cố đa cô vũ, phông trào vô tận đăng quang tường phúc lãng
Thử nhật tùng tâm, cang phùng khánh tiết, thiên tãi hạ trùng quang Phật nhựt, hồ nhi lạc quốc thốc tiên đăng

Câu đối Nôm của thầy Vân Đàm tặng như sau:

Rừng mai đạp tuyết, cay đắng trải bao phen, cơ hóa độ còn nhiều hy vọng chứa chan, tằm kéo tơ lòng thêu sử Phật
Sàng Trúc trổ hoa, tỉnh mê trong nửa kiếp, tình tương tri quá nặng, sầu trường man mác, quyện rơi giọt lụy gọi hồn thiêng

Những câu đối của Hoà Thượng Thích Thiện Siêu (1921 - 2001)[sửa]

Hoà thượng Thích Thiên Siêu vốn họ Võ, huý Trọng Tường, Pháp danh Tâm Phật, tự Trí Đức, hiệu Thiện Siêu. Hoà thượng sinh trong một gia đình thâm Nho tín Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngài để lại cho hậu thế rất nhiều câu đối, cụ thể như sau:

Những câu đối chữ Nho[sửa]

1 - Câu đối tự vịnh và tự thuật về Phật pháp:

入門宜捨庸常性 Nhập môn nghi xả dung thường tánh (Vào chùa hãy sinh tâm hoan hỷ)
到寺應生歡喜心 Đáo tự ưng sinh hoan hỷ tâm (Đến chùa nên bỏ tánh tầm thường)
金相放毫光遍照十方成淨土 Kim tướng phóng hào quang biến chiếu thập phương thành tịnh độ (Thân vàng phóng hào quang biến khắp mười phương thành cõi tịnh)
山色含歲月圓融三際即禪心 Sơn sắc hàm tuế nguyệt viên dung tam tế tức thiền tâm (Màu núi bao hàm năm tháng tròn đầy ba cõi tức tâm thiền)
後滄海前碧江水月波光相映月 Hậu thương hải, tiền bích giang, thủy nguyệt ba quang tương ánh nguyệt (Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ)
朝金經募玉偈鼓鐘聲響共遙興 Triêu kim kinh, mộ ngọc kệ, cổ chung thanh hưởng cộng diêu hưng (Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần)
境值幽深野草閑花亡歲月 Cảnh trị u thâm, dã thảo nhàn hoa vong tuế nguyệt (Gặp cảnh thâm u, cỏ nội hoa đồng quên năm tháng)
山居曠闊晨鐘募鼓了色空 Sơn cư khoán hoạt thần chung mộ cổ liễu sắc không (Ở non phóng khoáng chuông hôm mõ sớm tỏ sắc không)
慧日高懸普照眾生于覺道 Tuệ nhật cao huyền, phổ chiếu chúng sanh vu giác đạo (Tuệ nhật treo cao, chiếu khắp quần sanh về đường giác)
慈風普扇齊資萬類出迷津 Từ phong phổ phiến, tề tư vạn loại xuất mê tân (Gió từ phơ phất, mát cùng vạn loại khỏi bến mê)
拜手炷壇香三千界結祥雲奉獻如來蓮坐上 Bái thủ chú đàn hương, tam thiên giới kiết tường vân, phụng hiến Như Lai liên tọa thượng (Tay sạch đốt hương đàn, thế giới ba ngàn kết mây lành, dâng hiến Như Lai trên bảo tọa)
信心持佛號百八聲成正念祈生淨土寶蓮中 Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chánh niệm, kỳ sanh Tịnh độ bảo liên trung (Tâm thành trì hiệu Phật, một trăm lẻ tám thành niệm chánh, cầu sanh Tịnh độ giữa hoa sen)
佛不離心動靜隨緣消舊業 Phật bất ly tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp (Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ)
志存大道去來無礙悟禪機 Chí tồn đại đạo, khứ lai vô ngại ngộ thiền cơ (Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền)
智慧心開累劫昏迷從截斷 Trí huệ tâm khai, lũy kiếp hôn mê tùng tiệt đoạn (Tâm trí huệ mở bày, lũy kiếp hôn mê liền dứt sạch)
慈悲念起多生業障自標亡 Từ bi niệm khởi, đa sanh nghiệp chướng tự tiêu vong (Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong)
離四句絕百非自此忘言真有道 Ly tứ cú, tuyệt bách phi, tự thử vong ngôn, chân hữu đạo (Dứt trăm quấy, lìa bốn câu, tự chỗ vong ngôn mới thật đạo)
旋六根淨三業只於息念證無生 Tồn lục căn, tịnh tam nghiệp, chỉ ư tức niệm chứng vô sanh (Xoay sáu căn, sạch ba nghiệp, chính nơi dứt niệm ấy vô sanh)
隨其善願接度為師悅眾心於大道 Tùy kỳ thiện nguyện, tiếp độ vi sư, duyệt chúng tâm ư đại đạo (Theo thiện nguyện nó, tiếp độ cho làm thầy, tâm chúng được vui trong đạo lớn)
施無緣慈作不請友破疑網於幽途 Thí vô duyên từ, tác bất thỉnh hữu, phá nghi võng ư u đồ (Thí vô duyên từ, làm người bạn không thỉnh, lưới nghi phá sạch, giữa đường mê)
法水長流處處潤消枯縱遇石盤不斷曹溪甘露脈 Pháp thủy trường lưu xứ xứ nhuận tiêu khô, túng ngộ thạch bàn, bất đoạn Tào Khê cam lồ mạch (Dòng nước pháp chảy dài, chốn chốn tưới nhuần tiêu khô hạn, dẫu gặp đá bàn vẫn không dứt mạch Tào khê Cam lộ)
慈風普扇時時摧熱惱設遭嵐氣仍會蓮池解脫香 Từ phong phổ phiến, thời thời thôi nhiệt não, thiết tao lam khí, nhưng hội liên trì giải thoát hương (Ngọn gió từ thổi khắp, thời thời xua nhiệt đẩy sầu lo, dù vào khí chướng mà cứ nồng hương Giải thoát Liên trì)
幾度功勳長皓月 Kỷ độ công huân trường hạo nguyệt (Mấy độ công huân dài trăng sáng)
一生奇氣縱高峰 Nhất sanh kỳ khí túng cao phong (Một đời kỳ khí ngút tận núi cao)
此地有緣藏淨骨 Thử địa hữu duyên tàng tịnh cốt (Đất ấy duyên may chôn tịnh cốt)
這山得譽遇真人 Giá sơn đắc dự ngộ chân nhân (Núi này vinh dự gặp chân nhân)
息煩惱而悟菩提翠柳黃花非外境 Tức phiền não nhi ngộ bồ-đề thuý liễu hoàng hoa phi ngoại cảnh (Dứt phiền não để chứng Bồ-đề liễu biếc hoa vàng đâu cảnh khác)
了妄緣以成般若白雲明月豈他觀 Liễu vọng duyên dỉ thành bát nhã bạch vân minh nguyệt khởi tha quan (Hết vọng duyên thì thành Bát-nhã mây trắng trăng trong chẳng đâu xa)
大慈大悲愍眾生應化隨緣身其身而地其地 Đại từ Đại bi mẫn chúng sanh, ứng hoá tùy duyên thân kỳ thân nhi địa kỳ địa (Đại từ đại bi thương xót chúng sanh, theo duyên ứng hoá, thân với thân như đất với đất)
大喜大捨濟含識威德自在聖中聖而天中天 Đại hỷ đại xả tế hàm thức, oai đức tự tại thánh trung, thánh nhi thiên trung thiên (Đại hỷ đại xả cứu tế vạn loài, oai đức tự tại, thánh trong thánh như trời trong trời)
永棄邪思歸向佛陀增福樂 Vĩnh khí tà tư quy hướng Phật đà tăng phước lạc (Mãi bỏ ý tà, qui hướng Phật đà, thêm phước lạc)
光含萬像仗憑慧日破瞋癡 Quang hàm vạn tượng trượng bằng tuệ nhật phá sân si (Bao gồm vạn vật, nương theo vầng tuệ, phá sân si)
理絕兩邊即心即物 Lý tuyệt lưỡng biên tức tâm tức vật (Lý dứt hai bên, là tâm là vật)
道無頓漸非實非權 Đạo vô đốn tiệm phi thật phi quyền (Đạo không mau chậm, chẳng thật chẳng quyền)
衛伽藍而清淨 Vệ già lam nhi thanh tịnh (Giúp già lam thành thanh tịnh)
護佛法以長存 Hộ Phật pháp dĩ trường tồn (Hộ Phật pháp được trường tồn)
真俗互融閱第一義 Chân tục hỗ dung duyệt đệ nhất nghĩa (Chân tục đều thông, nêu nghĩa đệ nhất)
自他兼利入不二門 Tự tha kiêm lợi nhập bất nhị môn (Ta người cùng lợi, vào cửa không hai)
寶地莊嚴色香不異 Bảo địa trang nghiêm, sắc hương bất dị (Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác)
佛門廣大出入隨緣 Phật môn quảng đại xuất nhập tùy duyên (Cửa Phật quảng đại ra vào tùy duyên)
入此門無貪瞋癡慢 Nhập thử môn vô tham sân si mạn (Vào cửa đây, không tham, sân, si, mạn)
登是地有雄力慈悲 Đăng thị địa, hữu hùng lực từ bi (Lên đất này, có hùng, lực, từ, bi)
福慧圓修真佛子 Phước tuệ viên tu chơn Phật tử (Phước tuệ tròn tu chính người Phật tử)
智悲雙運大慈尊 Trí bi song vận đại từ tôn (Trí bi đầy đủ, ấy bậc đại từ)

2 - Câu đối viêt tặng khuôn Thuận Hoá ở tại Huế:

順覺性以勳修永斷貪瞋癡慢有漏業 Thuận giác tánh dĩ huân tu vĩnh đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp (Theo giác tánh để tu trì, đoạn hết nghiệp hữu lậu tham sân si mạn)
化迷投而解脫具足慈悲喜捨無量心 Hoá mê đầu nhi giải thoát cụ túc từ bi hỉ xả vô lượng tâm (Diệt cõi mê được giải thoát, đầy đủ tâm vô lượng hỷ xả từ bi)
法本如如迷之者謂色謂聲悟去者非空非有 Pháp bổn như như mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ khứ giả phi không phi hữu (Pháp vốn như như, khi đang mê là sắc là tiếng, khi ngộ rồi chẳng không chẳng có)
心常寂寂即乎此為樂為善離乎此是苦是憂 Tâm thường tịch tịch tức hồ thử vi lạc vi thiện, li hồ thử thị khổ thị ưu (Tâm thường vắng lặng, ở nơi đó là vui là thiện, rời đó ra thì khổ thì lo)

3 - Câu đối viết tại chùa Thiền Tôn và chùa Từ Đàm ở thành phố Huế:

昔日已曾為孝子為明君捨命施身救護眾生出迷途苦趣 Tích nhật dĩ tằng vi hiếu tử, vi minh quân, xả mạng thí thân, cứu hộ chúng sinh xuất mê đồ khổ thú (Xưa ngài từng làm con hiếu, làm vua hiền, xả mạng, bỏ thân, giúp chúng sanh khỏi đường mê lối khổ)
今生又復棄國城棄珍寶降魔殺賊圓成正果開覺路禪門 Kim sinh hựu phục khí quốc thành, khí trân bảo, hàng ma sát tặc, viên thành chánh quả khai giác lộ thiền môn (Đời này lại bỏ quốc gia, bỏ của báu, hàng ma, giết tặc, thành chánh quả khai nẻo Giác cửa thiền)
視眾生如赤子啟悟除迷悲極三輪廓五乘而垂範 Thị chúng sinh như xích tử, khởi ngộ trừ mê, bi cực tam luân khuếch ngũ thừa nhi thùy phạm (Xem chúng sanh như con đỏ, khai ngộ trừ mê, lòng xót ba luân, mở năm thừa mà ban khuôn phép)
睹法界若空花旋根絕相智圓十力陶萬像以嚴規 Đỗ pháp giới nhược không hoa, triền căn tuyệt tướng, trí viên thập lực đào vạn tượng dĩ nghiêm qui (Ngắm pháp giới tợ hoa không, bỏ căn dứt tướng, trí tròn mười lực, suy vạn tượng để lập nghiêm qui)
飯熟已多時指圖見性言下知歸百尺竿頭重進步 Phạn thục dĩ đa thì, chỉ đồ kiến tánh ngôn hạ tri quy, bách xích can đầu trùng tấn bộ (Cơm chín đã từ lâu, trỏ đồ hình, thấy tâm tính; lời dứt biết ngay chỗ về, đầu sào trăm thước còn cất bước)
早知燈是火撥草參懸聲前悟旨一輪明月夜傳衣 Tảo tri đăng thị hỏa, bát thảo tham huyền thinh tiền ngộ chỉ, nhất luân minh nguyệt dạ truyền y (Sớm hay đèn là lửa, trừ cỏ rối, tham diệu huyền, tiếng truyền ngộ liền ý chỉ, trăng sáng một vầng, tối truyền y)
般若本無言離四句絕百非應化隨緣說無量無邊妙法 Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp (Bát-nhã vốn không lời, lìa tứ cú, bỏ bách phi, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên)
菩提先有願證三明具五眼俱圓福果成大雄大力慈尊 Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn (Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ ngũ nhãn, tròn đầy quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực)

4 - Câu đối viết tặng chùa Bát Nhã - Phú Yên:

梵宇遍莊嚴日放重新境色 Phạm vũ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc (Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật lung linh như cảnh sắc)
蓮臺常燦爛雲開顯現祥光 Liên đài thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang (Đài sen vắng lặng, vầng mây hiển hiện ánh tường quang)
橋樹陵空七寶莊嚴光佛剎 Kiều thọ lăng không thất bảo trang nghiêm quang Phật sát (Cây vút tầng không, bảy báu trang nghiêm cõi Phật)
叢林聳秀四山巒碧映禪關 Tòng lâm túng tú, tứ sơn loan bích ánh thiền quan (Rừng tùng xinh tốt, bốn bề non biếc cửa Thiền)
千 百 億 金 身 教 法 宣 揚 攝 眾 生 于 覺 地 Thiên bách ức kim thân, giáo pháp tuyên dương, nhiếp chúng sanh vu giác địa (Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác)
三 十 二 寶 相 慈 光 遍 照 救 萬 類 出 迷 途 Tam thập nhị bảo tướng, từ quang biến chiếu, cứu vạn loại xuất mê đồ (Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê)

5 - Câu đối viết tặng các thiền tự khác trong cả nước:

金地築叢林孤月光含空即色 Kim địa trúc Tòng lâm, cô nguyệt quang hàm không tức sắc (Đất báu xây Tòng lâm, trăng rọi ánh vàng không tức sắc)
山頭興寶剎群巒翠鎖古猶今 Sơn đầu hưng bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim (Non cao mở chùa Phật, núi phơi màu biếc, cổ như kim)
Câu đối trên viết tặng Tòng lâm Kim Sơn ở đồi Kim Sơn, làng Lựu Bảo, Huế - 1968
湖畔起禪關教演真乘一性圓明還本際 Hồ bạn khởi thiền quan, giáo diễn chơn thừa, nhất tánh viên minh hoàn bản Tế (Bên hồ dựng nếp chùa, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội)
山頭開勝會聽來說法深心信樂悟前根 Sơn đầu khai thắng hội, thính lai thuyết pháp, thâm tâm tín nhạo ngộ tiền căn (Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa)
Câu đối trên viết tặng chùa Hồ Sơn do tổ Tế Căn khai sáng tại Tuy Hòa, kiến thiết lại năm 1984
含龍再午談經扶律出真詮應物曲陳雟燈實地 Hàm long tái ngọ, đàm kinh phò luật xuất chân thuyên, ứng vật khúc trần, huề đăng thật địa (Núi Hàm Long trở lại giữa trưa, giảng kinh phò Luật, nêu rõ lý mầu, ứng theo hoàn cảnh mà trình bày quanh co nhằm dìu dắt bước lên đất thật)
報國重光撥火磨磚傳祖道當機直指不落岐途 Báo Quốc trùng quang, bát hỏa ma chuyên truyền tổ đạo, đương cơ trực chỉ, bất lạc kỳ đồ (Chùa Báo Quốc trở lại rạng quang, bươi lửa mài gạch để truyền Tổ đạo, ngay vào căn duyên chỉ thẳng, tránh rơi lạc đường chia)
Câu đối trên viết cho bàn thờ Tổ chùa Báo Quốc sau khi kiến thiết lại năm 1969
謙忍有餘發意圓成三聚戒 Khiêm nhẫn hữu dư, phát ý viên thành Tam tụ giới (Khiêm nhẫn có dư, một nguyện tròn thành Tam tụ giới)
智悲無礙終身不退四弘心 Trí bi vô ngại, chung thân bất thối Tứ hoằng tâm (Trí bi không ngại, trọn đời chẳng thối Bốn hoằng tâm)
Câu đối trên khắc ở tháp Hòa thượng Thích Thanh Trí chùa Báo Quốc-Huế
指圖見性言下知歸誰是竿頭進步 Chỉ đồ kiến tánh, ngôn hạ tri quy, thùy thị can đầu tấn bộ (Chỉ đồ hình nhằm thấy tánh thật, ngay lời biết chỗ quay về, đâu là người đầu sào tiến bước?)
撥草參玄聲前悟旨始能心內承當 Bát thảo tham huyền, thanh tiền ngộ chỉ thỉ năng tâm nội thừa đương (Phát cỏ dại để tìm cơ huyền, ứng tiếng thông nơi ý chỉ, mới chính kẻ tự nội thừa đương)
Câu đối khắc ở tháp chùa Báo Quốc - Huế và bàn thờ Tổ ở Long Sơn - Nha Trang
廣大行發深心撥拓迷雲不倦誨人培佛種 Quảng đại hạnh, phát thâm tâm, bát thát mê vân, bất quyện hối nhân bồi Phật chủng (Quảng khai đại hạnh, phấn phát tâm sâu, vén bớt mây mê, mệt mỏi chẳng nề dạy người vun Phật chủng)
究真空研妙旨沖開慧日逢場卓錫振宗風 Cứu chơn không, nghiên diệu chỉ, xung khai tuệ nhật, phùng trường trác tích chấn tông phong (Thẩm cứu chân không, thâm nghiên ý diệu, mở ra vầng tuệ, ngay nơi duyên thuận, dựng gậy chấn Tông phong)
Câu đối trên viết tặng tháp Hòa thượng Thích Trí Thủ chùa Báo quốc-Huế
御嶺清風拂面問誰能作佛 Ngự lãnh thanh phong, phất diện vấn thùy năng tác Phật (Đỉnh Ngự gió lành phe phất tìm ai hay làm Phật?)
屏前枯木待人知遇為開花 Bình tiền khô mộc, đãi nhơn tri ngộ vị khai hoa (Non Bình cây héo mong chờ người hiểu để nở hoa)
Câu đối trên viết tặng Khuôn hội Phật giáo Ngự Bình - Huế
即俗而真處處盡成花藏界 Tức tục nhi chơn, xứ xứ tận thành Hoa tạng giới (Tức tục mà chơn, nơi nơi đều thành Hoa tạng giới)
背塵合覺心心圓攝大乘門 Bội trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn (Trái trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn)
Câu đối trên viết tặng tháp HT. Mật Nguyện, chùa Trúc Lâm - Huế
廣開方便門善闡頻伽普建法場于處處 Quảng khai phương tiện môn, thiện xiển tần già phổ kiến pháp tràng vu xứ xứ (Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già, dựng xây pháp tràng khắp chốn chốn)
香遍莊嚴土滋陪道樹高標德本於重重 Hương biến trang nghiêm độ, tư bồi đạo thọ cao tiêu đức bổn ư trùng trùng (Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi)
Câu đối trên Tặng chùa Quảng Hương của Hòa thượng Thích Trí Thủ năm 1970
背覺合塵夢裡那知身是幻 Bội giác hiệp trần, mộng lý na tri thân thị huyễn (Trái giác hiệp trần, trong mộng đâu hay thân là huyễn)
歸源得旨定中常照佛猶心 Quy nguyên đắc chỉ, định trung thường chiếu Phật do tâm (Về nguồn đặng gốc, lúc định thường thấy Phật tại tâm)
Câu đối trên viết tặng chùa Hương Sơn – Huế
寶印宗風只物傳心一句話頭真了悟 Bảo ấn tông phong “Chỉ vật truyền tâm” nhất cú thoại đầu chơn liễu ngộ (Tông phong bảo ấn, “Chỉ vật để truyền tâm”, một câu thoại đầu tâm tõ ngộ)
淨光高德隨緣化道懸崖散手盡觀通 Tịnh quang cao đức, tùy duyên hóa đạo “Huyền nhai tán thủ” tận quan thông (Cao đức tịnh quang, tùy duyên hóa đạo, buông tay nơi vực thẳm trí dung thông)
Câu đối trên viết tặng chùa Bảo Tịnh - Phú Yên
續斷起晨鐘識得殲塵不著眼 Tục đoạn khởi thần chung thức đắc tiêm trần bất trước nhãn (Tiếp, dứt tiếng chuông mai, rõ được bụi trần không dính mắt)
榮枯成夢幻覺來世界總唯心 Vinh khô thành mộng huyễn giác lai thế giới tổng duy tâm (Tươi, khô giấc mộng huyễn, hay rằng thế giới chỉ là tâm)
Câu đối trên viết tặng chùa Tây Thiên - Huế
人依法法依人動靜隨緣消舊業 Nhơn y pháp, pháp y nhơn, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp (Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ)
佛即心心即佛古今不二合真宗 Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất nhị hợp chơn tông (Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông)
Câu đối trên viết tặng cho một số chùa trong Miền Nam
找 寶 筏 泛 慈 航 拔 濟 愛 河 名 利 客 Hoa bảo phiệt phiến từ hàng, bạt tế ái hà danh lợi khách (Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái)
演 金 經 宣 妙 偈 喚 迴 苦 海 夢 迷 人 Diễn kim kinh, tuyên diệu kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê nhơn (Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê)
Câu đối trên viết tặng Khuông hội Phật giáo An Dương - Huế
盡捨貪瞋癡當此土而為淨土 Tận xả Tham, Sân, Si, đương thử độ nhi vi Tịnh độ (Bỏ hết Tham, Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ)
圓修戒定慧即凡心化作聖心 Viên tu Giới, Định, Tuệ, tức phàm tâm hóa tác Thánh tâm (Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm chính Thánh tâm)
Câu đối trên viết tặng chùa Diên Bình - Quảng Trị
慶值幽深募鼓晨鐘亡累劫 Khánh trị u thâm, mộ cổ thần chung vong lụy kiếp (Gặp cảnh thâm u mõ sớm chuông chiều sạch kiếp khổ)
山居曠闊閑花野草了三生 Sơn cư khoán hoạt, nhàn hoa dã thảo liễu tam sanh (Ở non phóng khoáng vui cùng hoa cỏ ngộ ba sanh)
Câu đối trên viết tặng chùa Khánh Sơn - Huế
前錄水後青山梵宇輝煌佛光遍照 Tiền lục thủy, hậu thanh sơn, phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu (Trước nước biếc, sau non xanh, Phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu)
募金經朝玉偈塵心滌盡正念分明 Mộ kim kinh, triêu ngọc kệ, trần tâm địch tận chánh niệm phân minh (Chiều kinh vàng, sáng kệ ngọc, lòng trần gột sạch, chánh niệm phân minh)
Câu đối viết tặng chùa Hải Ấn - Nha Trang
執我執人見色聞聲成過患 Chấp ngã chấp nhơn, kiến sắc văn thanh, thành quá hoạn (Chấp ngã chấp nhơn, thấy sắc nghe thanh đều tội lỗi)
修悲修智舉心動念任容通 Tu bi tu trí, cử tâm động niệm, nhậm dung thông (Tu bi tu trí, khởi tâm động niệm thảy dung thông)
Câu đối trên viết tặng Khuông hội Phật giáo An Bằng - Huế
反妄歸真一念迴頭即彼岸 Phản vọng quy chơn, nhất niệm hồi đầu tức bỉ ngạn (Bỏ vọng về chơn, một niệm quay đầu là bến giác)
尋牛訪跡三關參透入空門 Tầm ngưu phỏng tích, tam quan tham thấu nhập không môn (Tìm trâu hỏi dấu, ba quan (cửa ải) tham thấu tới cửa không)
Câu đối trên viết tặng chùa Kim Quang - Huế
法本如如迷之者謂色謂聲悟之者非空非有 Pháp bản như như, mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ chi giả phi không phi hữu (Gốc pháp như như, người mê nó thì bảo là sắc là tiếng, người ngộ nó thì chẳng không chẳng có)
心原寂寂即乎此為善為樂離乎此是苦是憂 Tâm nguyên tịch tịch, tức hồ thử vi thiện vi lạc ly hồ thử thị khổ thị ưu (Nguồn tâm lặng lặng, tức nơi đây là lành là vui, lìa nơi đây thì khổ thì lo)
Câu đối trên viết tặng chùa Bảo Lộc - Lâm Đồng
竹聲松聲鐘磬聲聲聲無礙 Trúc thanh, tùng thanh, chung khánh thanh thanh thanh vô ngại (Tiếng trúc, tiếng tùng, tiếng khánh chuông, tiếng tiếng đều chẳng ngại)
山色水色煙霞色色色皆空 Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không (Màu non, màu nước, màu mây khói, màu màu cũng vẫn không)
Câu đối trên viết tặng chùa sư nữ Diệu Đức – Huế
廣開智慧門聽法聞經名利心從流水去 Quảng khai trí tuệ môn thính pháp văn kinh danh lợi tâm tùng lưu thuỷ khứ (Mở rộng cửa trí tuệ, thính pháp nghe kinh tâm danh lợi trôi theo dòng nước)
治平清良地修身行善是非言逐落花殘 Trị bình thanh lương địa tu thân hành thiện thị phi ngôn trục lạc hoa tàn (Đắp bằng đất thanh tịnh, tu thân làm thiện lời phải trái chìm với hoa tàn)
Câu đối trên viết tặng chùa Tỉnh hội Quảng Trị
弘施大願玉質降皇宮噴水九龍齊沐浴 Hoằng thí đại nguyện, ngọc chất giáng hoàng cung, phún thủy cửu long tề mộc dục (Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm)
為度群生金身修雪嶺含花百鳥兢朝參 Vi độ quần sanh, kim thân tu tuyết lãnh, hàm hoa bách điểu cạnh triêu tham (Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu)
Câu đối trên viết tặng chùa Vô Ưu – TP. Hồ Chí Minh
萬法一如即俗即真歸覺道 Vạn pháp nhất như tức tục tức chơn quy giác đạo (Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác)
德同法界談空談有轉迷心 Đức đồng pháp giới đàm không đàm hữu chuyển mê tâm (Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê)
Câu đối trên viết tặng chùa Vạn Đức – TP.Hồ Chí Minh
慈眼觀眾生於智於愚是同一子 Từ nhãn quán chúng sanh ư trí ư ngu thị đồng nhất tử (Mắt thương nhìn chúng sanh, kẻ trí kẻ ngu đều là con cả)
宗風成梵宇是空是色入不二門 Tôn phong thành Phạm vũ thị không thị sắc nhập bất nhị môn (Tông phong xây chùa Phật, ấy không ấy sắc vào cửa không hai)
Câu đối trên viết tặng chùa Từ Tôn - Biên Hoà
道樹花開香滿徑 Đạo thọ hoa khai hương mãn kính (Cây đạo nở hoa đường hương ngập)
叢林月現鳥歸巢 Tùng lâm nguyệt hiện điểu qui sào (Rừng thiền trăng sáng tổ chim về)
Câu đối trên viết tặng sư bà Diệu Không nhân ngày mừng, thọ 85 tuổi
參禪修透祖師關文字兮為重在拈花為笑 Tham thiền tu thấu tổ sư quan, văn tự hề vi trọng tại niêm hoa vi tiếu (Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mỉm miệng)
妙悟要窮心路絕語言何用全憑扣指三聲 Diệu ngộ yếu cùng tâm lộ tuyệt, ngữ ngôn hà dụng toàn bằng khấu chỉ tam thanh (Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần)
Câu đối trên viết cho chùa Linh Sơn Pháp Bảo ở Nha Trang - Khánh Hoà
至道不在言詮即俗即真頓悟肯乘當運水梆柴皆妙用 Chí đạo bất ngại ngôn thuyên, tức tục tức chơn, đốn ngộ khẳng thừa đương, vận thủy bang sài giai diệu dụng (Đạo rốt ráo đâu ở thuyết đàm, là tục, là chơn, ngộ liền vẫn vậy, gánh nước nôi, chặt củi nè đều là diệu dụng)
疑情一番勘破非心非物本來真面目磨磚豎指總禪機 Nghi tình nhất phiên khám phá, phi tâm phi vật, bổn lai chơn diện mục, ma chuyên thụ chỉ tổng thiền cơ (Tình nghi nan một khi khám phá, chẳng tâm, chẳng vật, mặt mũi xưa nay, mài ngói gạch, giơ ngón tay cũng chỉ thiền cơ)
Câu đối trên viết tặng chùa Thiền Tôn - Huế
入解脫門設斷貪瞋癡慢有漏業 Nhập giải thoát môn, thiết đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp (Vào cửa giải thoát, nghiệp hữu lậu tham sân si mạn phải quyết dứt trừ)
證三寶地常行慈悲喜捨無量心 Chứng Tam Bảo địa, thường hành từ bi hỷ xả vô lượng tâm (Chứng miền Tam bảo, tâm vô lượng từ bi hỷ xả cần luôn thực hiện)
Câu đối viết tặng chùa Vĩnh Quang
救苦尋聲觀自在 Cứu khổ tầm thanh Quán Tự Tại (Quán Tự Tại tìm tiếng kêu cứu khổ nạn)
慈悲願力焰然王 Từ bi nguyện lực Diệm Nhiên Vương (Diệm Nhiên Vương theo sức nguyện tỏ từ bi)
Câu đối trên viết tặng Chùa Quảng Hương Già Lam, Tp. Hồ Chí Minh

Những câu đối chữ Nôm[sửa]

  • Những câu đối tức cảnh và tự thuật:
Tánh lặng đất trời chung một cõi
Tâm không trăng gió trải muôn phương
Ngộ thấu nguồn chơn, tâm danh lợi trôi theo dòng nước
Rõ cùng lý đạo, niệm thị phi bay lẫn chòm mây
Trừ vọng tưởng, dứt mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác
Hết vô minh, sạch nghiệp chướng, giương cao đèn tuệ vượt sông mê
Rũ sạch lòng trần, giọt nước cam lồ, rưới tắt não phiền chín cõi
Mở tròn tuệ giác, soi đèn Bát-nhã, hiển bày tướng hảo ba thân
Cá biết về nguồn thăm nghĩa cội
Chim dầu xa tổ nhớ ơn cây
Tấc cỏ ngậm ngùi, hương khói tỏ lòng con cháu thảo
Ba xuân thương nhớ, lớn khôn nhờ đức tổ tông hiền
Cõi Ta-bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời giác ngộ
Cửa Tam quan tình thương rộng mở, chuông khua đồng vọng tiếng từ bi
Sạch phiền não, hết tham sân, cửa Phật đây rồi thôi chạy kiếm
Phá si mê, trừ nghiệp chướng, đường trần đó mặc hết rong tìm
Cửa Không trống dậy mấy hồi, đọc kinh chú xua tan mộng ảo
Cõi Phật chuông đưa vài chập, niệm Nam mô xóa sạch não phiền
Lặng nhìn mây trắng núi xanh, hương giải thoát xông lừng cây cỏ
Vẳng tiếng thông reo chim hót, gió từ bi thổi mát đất trời
Mây núi chập chùng, trăng Bát-nhã lồng soi vũ trụ
Cỏ hoa tươi tốt, gió Từ bi thổi mát sinh linh
Đây chùa đây Phật, đây mõ sớm chuông chiều, nhắn nhủ khách trần về nẻo giác
Này trăng này gió, này kinh vàng kệ ngọc, khuyên răn người tục bỏ lòng mê
Phật đạo có gì đâu ! thả chiếc thuyền Từ chờ kẻ giác
Pháp môn không kể xiết, khêu đèn Bát-nhã đón người mê
Vô minh tham ái buộc ràng, đối cảnh sinh tình thêm lụy tục
Bát-nhã từ bi giải thoát, xem kinh mở trí rạng lòng chơn
Đạo Tổ sáng hoài cỏ cây đượm nhuần mưa pháp
Chùa xưa mới mãi cháu con tiếp nối đèn thiền
Dứt sạch mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác
Trừ không nghiệp chướng, giương cao đèn Tuệ vượt sông mê
Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mê muội
Cửa chùa thanh tịnh, chuông chiều khua rã mộng ba sinh
Không là sắc, sắc là không, chổi buộc lông rùa quét sạch ba ngàn thế giới
Phật tức tâm, tâm tức Phật, mõ khua sừng thỏ tỉnh hồn ức triệu sinh linh
Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã soi cùng vũ trụ
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi dội khắp non sông
Cõi Ta-bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời Giác ngộ
Cửa Tam bảo đạo tình mở rộng, chuông khua đồng vọng tiếng Từ bi
Mười hiệu Phật, vài câu kinh, đánh thức ngàn năm mê muội
Một hồi chuông, mấy nhịp mõ, gõ tan bao kiếp trầm luân
Người nương pháp, pháp nương người, động tịnh theo duyên tiêu nghiệp cũ
Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác rõ lời chơn
Lòng mẹ tìm con xót xa, luân hồi đày đoạ, trần thế mây che, tấc dạ Kiền Liên đau đớn bấy
Ơn Phật nhờ thầy tế độ, pháp chứng vô sanh, Lăng già trăng hé, tấm lòng Bồ-tát nhẹ nhàng thay
  • Những câu đối viết tặng chùa chiền khác và phúng điếu:
Sắc tướng vốn không, nương cảnh huyễn độ người mê muội
Tử sanh nào có, mượn thuyền từ vớt kẻ trầm luân
Câu đối trên viết để phụng điếu Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân – Huế, 1972
Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui
Câu đối trên viết tặng Giảng đường Từ Đàm - Huế'
Biển ái lấp bằng, Tịnh độ đi về đâu mấy chốc
Sông mê tát cạn, Niết-bàn an trú vốn không xa
Câu đối trên viết tặng tháp Thượng tọa Thiện Lộc, chùa Thuyền Tôn-Huế
Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mộng ảo
Cửa chùa thanh tịnh, chuông chùa ngân vọng tiếng từ bi
Câu đối trên viết tặng chùa Kim Quang - Nha Trang
Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã chiếu tan niềm tục
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi gõ thức tình thương
Câu đối trên viết tặng Khuông hội Phật giáo Lăng Cô và Tây Lộc – Huế
Mắt Trí rạng ngời, đèn vô tận chiếu tan niềm tục
Tay Từ tế độ, nước dương chi gội sạch lòng trần
Câu đối trên viết tặng chùa Giác Hải, Nha Trang
Hiu hiu gió thổi đầu cành, không thấy, thấy không tùy mắt ngắm
Vằng vặc trăng soi đáy nước, thật hư hư thật hỏi lòng xem
Câu đối viết tặng chùa Thanh Phước - Huế
Tiếng chuông Linh Mụ vọng về đâu, sáu nẻo luân hồi chúng sanh mong tế độ
Cội cả tòng lâm đà ngả xuống, hai hàng mê ngộ đệ tử xót bơ vơ
Câu đối viết phúng điếu Hòa thượng Thích Đôn Hậu

Những câu đối của Sư Ông Làng Mai[sửa]

Tu viện Làng Mai Quốc Tế Thái Lan được Sư Ông thương, đặt nơi đây một Vườn Ươm có cốc tre Nhìn Xa và thiền đường mái lá Trời Phương Ngoại. Đây là nơi đang có hơn 160 quý thầy, quý sư cô chung sống tu học giữa hai xóm Trời Quang và Trăng Tỏ. Mỗi ngày ở đây, đại chúng đang được Sư Bá, quý sư cha, sư mẹ nuôi dưỡng, cùng quý sư anh, sư chị, sư em đang ươm mầm và nuôi lớn sự vững chãi. Nơi đây các sư em như những chồi non bồ đề nhỏ nhất, đông nhất và nhiều người trẻ nhất đang tiếp nhận nguồn năng lượng bình an từ Sư Ông để nuôi lớn hạt giống hiểu thương trong mình và hiến tặng hạnh phúc cho đời mỗi sớm mai. Cánh Đại Bàng đã cất cánh tung bay trên Bầu Trời Phương Ngoại. Làng Mai Quốc Tế Thái Lan là mạch chảy tiếp nối của tăng thân từ Việt Nam ra Châu Á và đi khắp nơi. Sư Ông Làng Mai đã viết rất nhiều câu đối, tiêu biểu sau:

Tinh chuyên soi tỏ sao trên biển
Hào hùng vươn tới sóng chân trời

Trúc tím hoa vàng mắt chánh niệm truyền trao càng ngắm càng nhìn càng hiểu rõ

Thông reo chim hót tai chân tâm tiếp thọ biết nghe biết lắng biết thương sâu

Một lá ngô đồng rơi người vẫn cùng ta leo đồi thế kỷ
Ngàn hoa thuỷ tiên hé đất cứ theo trời hát khúc vô sinh

Qua vườn trúc thôn trên xuống Pháp Thân Tạng hội Thuỷ tiên ngàn tiên hé cánh

Băng đồi Mai xóm dưới qua Tham Vấn Đường ngày thả cá đàn cá tung tăng

Nhìn trúc mộc lên xanh nghe hải triều lên mấy độ
Thấy mai lan nở rộ nguyện phát túc về siêu phương

Tai nạn xưa trút sạch chín xóm rong chơi nghe hải triều sớm tối

Cơ duyên nay dồi dào một nhà xum họp ngắm mây lồng trước sau

Trúc quân tử dù thẳng nhưng mềm mại
Mai thanh tao tuy gầy vẫn kiên cường

Nước bích lắng trong ngàn sông có nước ngàn sông trăng hiện

Non nham tú lệ mỗi lần nhìn lại mỗi lần mới tinh

Trên đài sen trắng Như Lai hiện
Giữa rừng trúc tím Quán Âm ngồi

Suối tuôn róc rách dòng Cam Lộ

Dương reo vi vút Hội Ngàn Sao

Tịnh độ nơi đây thích ý rong chơi người chẳng tìm cầu chi nữa
Bản môn bây giờ phỉ lòng an trú ta há theo đuổi gì thêm

Hộ trì sáu căn đi đứng nằm ngồi tâm chánh niệm

Trau giồi ba học vào ra cười nói tướng đoan nghiêm

Đầu non trăng chiếu tâm vững chãi
Góc biển mây lòng ý thảnh thơi

Giọt nước thành dòng sông thanh thản người về chơi biển lớn

Bước chân nên cõi tịnh thảnh thơi ta lên dạo đồi cao

Hoa giác ngộ nở khắp trong thiền lâm
Mưa diệu pháp thấm nhuần nơi học địa

Những câu đối đề tại Tu Viện Quảng Đức - Melbourne - Australia[sửa]

Cách phi trường quốc tế Melbourne 15 phút lái xe, lấy Western Ring Road và exit vào Hume High Way, sau đó quẹo trái từ đường Sydney road, đi vào con đường Lynch thân thương là Bảo Tháp Tứ Ân và cổ lầu của chánh điện Tu Viện Quảng Đức, tọa lạc tại số 105 Lynch Road, vùng Fawkner, đây là ngôi Tu Viện Phật Giáo duy nhất trong thành phố Moreland, thuộc vùng Tây Bắc của tiểu bang Victoria. Ngôi Tu Viện do Thượng Tọa Thích Tâm Phương khai sơn từ năm 1990, đối diện bàn thờ Tổ là Án thờ hình Bồ Tát Quảng Đức cao 1m20, hai bên có hai câu đối tiếng Việt nói lên ý nghĩa tri ân và báo ân:

Ơn Tam Bảo Sư Môn Phụ Mẫu Trọn Đời Luôn Ghi Nhớ
Nghĩa Chúng Sanh Dân Việt Tổ Quốc Suốt Kiếp Nguyện Đáp Đền

Nhờ kết hợp tinh hoa kiến trúc cổ truyền Việt Nam với các yếu tố của phong cách kiến trúc phương Tây, Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne, Úc Châu đã trở thành một trong những danh lam của Phật Giáo Việt Nam ở Hải Ngoại.

Câu đối của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ:

Quảng mạc thiên hoang cố lý, nhi phế hưng cạnh tẩu kinh đào, phiến diệp phù nang, quải nạp đằng la thử ngạn
Đức hành thế khoát tham phương, tỉ triêu lộ hàm huy diệu cảnh, không hoa thủy nguyệt, huyền hà bích lạc thần châu

Dịch nghĩa:

Chốn cũ dặm dài man mác, bởi phế hưng xô dậy sóng cồn, chiếc lá thuyền nan, vá áo chép kinh đất khách.
Đức tu mấy bước mù xa, tợ sương sớm nắng hồng đọng bóng, hoa trời trăng nước, ngân hà dằng dặc quê cha.

Câu đối của Hòa Thượng Thích Bảo Lạc:

Quảng nhiếp hàm linh chân thật ngữ, chân thật ý, chân thật hành nghi
Đức khai phương tiện như thị văn, như thị tư, như thị tu trì

Nghĩa là:

Quảng phương tiện, khai môn Vô lậu học, Văn – tư – tu chân thật pháp nhiệm mầu
Đức độ sanh, niệm đầu tịnh ba nghiệp, Thân – khẩu – ý ứng hiệp với hành nghi

Câu đối của Hòa Thượng Thích Huyền Tôn:

Quảng đại Tâm, pháp giới tùy duyên quy diệu dụng
Đức lưu Phương, Tăng già nhập thế hiển chơn như

Nghĩa là:

Tâm lớn bao la, cõi pháp giới theo duyên quay về nơi diệu dụng
Đức tỏa muôn phương, bậc Tăng già nhập thế bày tỏ lẽ Chơn Như

Những câu đối do Thượng Tọa Thích Hạnh Niệm gởi từ Chùa Pháp Bảo, Hội An, Quảng Nam, Việt Nam:

Quảng Đức già lam, khách địa thượng nhị thập niên, khẩn hoang tạo tự, linh Phật đạo, Bồ đề hoằng dương ư Úc quốc
Tứ Ân bảo tháp, ức hoài trung sổ kỷ tải, hiệp lực đồng tâm, sử Lạc Hồng chủng loại, vĩnh ký hướng Nam cương

Nghĩa là:

Quảng Đức tu viện, hai mươi năm trên đất khách, vỡ đất xây chùa, gieo mầm Phật pháp, để hạt giống Bồ đề, khắp lan trời Úc quốc
Tứ Ân bảo tháp, hai bốn tháng với lòng thành, chung tay góp sức, trúc móng tâm linh, cho đồng hương người Việt, luôn nhớ đất Nam ta

Và:

Quảng hoằng đại đạo, tiếp dẫn quần sinh, linh liễu hộ tức tâm thị Phật
Linh liễu thiên nhai, nhuận triêm vạn loại, tỷ hoát khai thị Phật tức tâm

Nghĩa là:

Quảng truyền đại đạo, dẫn dắt chúng sinh, khiến biết rõ tức tâm là Phật
Đức trải khắp trời, thấm nhuần muôn loài, cho thấy liền là Phật tức tâm

Những câu đối của đạo hữu Trần Triệu Khang:

Quảng Ðức Tự, Dấu chân vàng, Phật Ðà ngời ánh đạo
Thuận Duyên Lành, Quy Chánh Pháp, Tăng Chúng Sáng hạnh tu

Và:

Quảng Ðức Tự, ngôi Chùa thiêng, Phật hiển anh linh nơi xứ lạ
Vững Ðạo Tâm, tu Chánh Pháp, Ðạo vàng giải thoát cõi tâm linh

Những câu đối của cố Thượng Tọa Thích Quảng Hiện (1955-2002) đề tặng Tu Viện Quảng Ðức trong dịp Ngài ghé thăm Úc châu vào tháng 06 năm 2000:

Quảng Bá năm châu đèn trí tuệ sáng ngời Chánh Pháp truyền đi khắp xứ
Ðức truyền bốn biển nước từ bi rưới mát đạo mầu trải rộng mười phương

Và:

Quảng độ chúng sanh giữ trái tim son ngời Phật Pháp
Ðức trùm muôn loại đốt thân trí tuệ cứu quần sanh

Hay:

Tâm Từ toả khắp, rời quê hương dốc cả tín tâm, xây nền Chánh Pháp
Phương thảo thơm xa, nơi Úc quốc, trút dâng chí nguyện phụng sự nhân sinh